cung cấp những thứ hàng hoá tuyệt diệu cho chúng tôi, những thứ hàng
năm ở vùng cây bụi của châu Phi vẫn chấn chỉnh ý tưởng của chúng tôi về
bản thân mình, cho chúng tôi biết sự hiện đại và phát triển của mình đang ở
đâu, và làm chúng tôi ý thức về một châu Âu khác – châu Âu của những
thành phố khổng lồ, những nhà kho khổng lồ, những toà nhà khổng lồ,
những trường đại học khổng lồ. Chỉ những người được ưu tiên hoặc được
thiên phú mới đến được châu Âu đó. Đó là châu Âu mà Indar đã đến để học
ở trường đại học của mình. Đó là cái châu Âu mà ai đó như Shoba thường
nhắc đến khi cô nói đến chuyện đi du lịch.
Nhưng châu Âu mà tôi đến – và biết từ cái khung cảnh tôi rơi vào –
không phải là châu Âu cũ cũng không phải châu Âu mới. Nó là cái gì đó
say sưa, lấp lóa và đầy cấm đoán. Đó là châu Âu nơi Indar, sau khi ở ngôi
trường lừng danh, đã chịu đựng và cố đạt tới một giải pháp cho vi .trí của
mình trong thế giới, nơi Nazruddin và gia đình ông đang trốn tránh, nơi
hàng trăm nghìn người như tôi từ khắp nơi trên thế giới như tôi, đang tự
buộc mình đến, làm việc và sống.
Về châu Âu này tôi không thể dựng lên một bức tranh tinh thần nào.
Nhưng bức tranh London vẫn ở nguyên chỗ đó, không có bí ẩn gì cả. Hiệu
ứng do những quầy hàng, trạm điện thoại, ki ốt và những cửa hàng bán
hàng khô buồn tẻ gây ra – do những người như tôi điều hành – trên thực tế
là hiệu ứng của chính những người dồn đến đây. Họ buôn bán giữa London
như là đang buôn bán giữa châu Phi vậy. Hàng hoá trao đổi ở một khoảng
cách ngắn hơn, nhưng mối quan hệ của thương gia với hàng hoá thì vẫn
thế. Trên các đường phố London tôi thấy những người cũng giống như tôi
đó, như thể đang ở cách xa. Tôi thấy những người trẻ tuổi, bán những bao
thuốc lá vào nửa đêm, như thể bị cầm tù torng ki ốt của mình, giống như
những con búp bê trên sân khấu múa rối. Họ bị đè bẹp trong cuộc sống của
một thành phố khổng lồ nơi họ đã đến sống, và tôi tự hỏi về tính vô mục
đích của cuộc sống nhọc nhằn và chuyến đi khó nhọc của họ.