Và đầy những đống đổ nát. Miscerique probat populos et foedera
jungi. Những từ La tinh đó, mà tôi không biết nghĩa, là tất cả những gì còn
lại của một toà nhà bên ngoài cầu tầu. Tôi thuộc lòng những từ đó; tôi đọc
chúng theo cách đọc của riêng mình, chúng chạy qua đầu tôi như một chuỗi
từ vô nghĩa. Chúng được khắc trên một mảnh đá granite, phần còn lại của
phiến đá giờ đã nhẵn lỳ. Bức tượng đồng bên dưới những chữ đó đã bị bóc
đi; những mảnh đồng nhỏ lởm chởm còn lại trên mặt đá cho thấy người thợ
khắc đã dán lá chuối hoặc cành cọ lên trên cùng để tạo khuôn cho tác phẩm
của mình. Tôi biết rằng toà nhà này được xây dựng cách đây ít năm;
khoảng cuối thời thực dân, để kỷ niệm 60 năm tàu thuỷ hơi nước được đưa
vào sử dụng ở thủ đô.
Vậy là ngay sau khi vừa được dựng lên – rõ ràng là với những bài diễn
văn tiên đoán 60 năm phục vụ tương lai – toà công trình về tàu thuỷ cũng
gục luôn. Cùng với tất cả các loại tượng và công trình thực dân khác. Bệ
cột xiêu vẹo, rào chắn bảo vệ nham nhở, đèn báo mực nước nát tương và bị
vứt lỏng chỏng. Đống đổ nát đúng là đống đổ nát , không hề có ý định nào
vực chúng dậy. Tên của tất cả các phố chính đều bị đổi. Những tấm bảng
cứng đỡ lấy những cái tên mới, được viết rất cẩu thả. Không ai sử dụng tên
mới, vì chẳng ai quan tâm lắm đến chúng. Mong muốn chỉ là thoát khỏi cái
cũ, là quét sạch được ký ức về kẻ xâm lược. N' giảm nhẹ chiều sâu của sự
tức giận Phi châu, ước muốn tàn phá, không thèm biết đến hậu quả sẽ ra
sao.
Nhưng cái đáng rầu lòng hơn cả là khu ngoại ô đổ nát gần ghềnh
nước. Từng một thời là khu nhà có giá trị, giờ đây đã bị cây bụi che phủ, là
cái sân chung, theo phong tục của người châu Phi. Những ngôi nhà lần lượt
bị đốt cháy. Chúng bị lột mất những gì mà người địa phương thực sự cần, ở
mặt trước hoặc mặt sau nhà, những mảnh tôn, những đoạn ống nước, chậu
tắm, bồn rửa bát và thau rửa mặt (những cái chậu không rò, rất thuận tiện
để rửa sắn). Các bãi cỏ và khu vườn đã trở lại thành cây bụi; đường phố đã
biến mất, cành nho và các loại dây leo đã bò lên trên những bức tường