mấu cửa sổ. Đi tiếp xuống theo lối vào, một chút nữa sau cái bếp, ở bên
trái, là phòng khách.
Đó là một căn phòng rộng, và người đàn bà Bỉ đã sơn toàn màu trắng,
cả trần nhà, tường, cửa sổ, thậm chí cả rầm cửa sổ. Trong căn phòng trắng
với những ván sàn trần trụi đó có một cái đi văng bọc vải thô màu xanh
đậm, và, để hoàn chỉnh hiệu ứng của phòng tranh, có một cái bàn chân
niễng không sơn gì cả, rộng như một bàn bóng bàn. Trên nó là đủ thứ đồ
linh tinh của tôi – những cuốn tạp chí cũ, sách bìa giấy, thư từ, giầy, vợt
đánh bóng và mỏ lết, hộp giầy và hộp áo phông trong đó tôi đã nhét đủ thứ
bà rằn. Một góc bàn được giữ sạch, và nó luôn luôn được phủ lên một tấm
vải trắng cháy sém, đó chính là nơi Metty ủi quần áo, đôi khi với bàn là
điện (luôn nằm trên bàn), đôi khi (khi bàn ủi điện bị hỏng) bằng bàn ủi than
rất cứng, một thứ hàng mà cửa hiệu có bán.
Trên bức tường trắng ở cuối phòng là một bức tranh sơn dầu lớn vẽ
một bến cảng châu Âu, được vễ bằng màu đỏ, vàng và xanh da trời. Nó
được vẽ theo phóng cách hiện đại cẩu thả, người đàn bà đã vẽ nó và ký tên
trên đó. Bà đặt nó một cách kiêu hãnh trong căn phòng chính của mình.
Nhưng bà ta cũng nghĩ nó không đủ giá trị để mà liều lĩnh mang theo thời
biến động. Trên sàn nhà, dựa vào những bức tường, là những bức vẽ khác
mà tôi thừa hưởng từ người đàn bà. Cứ như thể bà ta dã mất lòng tin vào
những thứ đồ lặt vặt của mình, và khi cơn khủng hoảng thời độc lập xảy
đến, bà bèn vui sướng bỏ ra đi.
Phòng ngủ nằm cuối lối vào. Với tôi đây là nơi của một sự tan hoang
đặc biệt, với những giá đựng cốc chén to tướng và cái giường nhồi cỏ to
khủng khiếp. Điều gì từng diễn ra trên cái giường chắc hẳn thuộc về người
đàn bà! Những ước đoán đó, như là một bảo đảm cho sự tự do của tôi,
những sự buông thả đó, cái cảm giác ngượng ngùng đó, biết bao nhiêu
người đàn bà châu Phi đã bị tống khỏi đó vào những giờ thật khó khăn –
trước khi Metty về đến nơi, hoặc trước khi Metty thức dậy! Nhiều lần trên