Giờ thì tôi không thể buộc mình ăn bất cứ thứ gì của nhà bếp nữa cả. Tôi
không có đồ làm bếp trong phòng, và ở xe của Weyden có mùi cống bốc
lên từ hiên. Tôi phải đi đây. Tôi phải ra đi. Cha Huismans thì ổn thôi. Ông
ấy là người tu hành. Tôi thì không phải là người tu hành. Ông đi vào vùng
cây bụi. Tôi không muốn đi vào cây bụi."
Tôi không thể giúp anh ta. Thực phẩm là vấn đề với tất cả mọi người ở
đây. Tôi cũng chẳng khá hơn là mấy; hôm đó tôi ăn trưa với một cặp vợ
chồng Ấn Độ, trong cái mùi khủng khiếp của a nguỳ và khăn trải bàn mùi
dầu.
Một tuần sau trở lại trường tôi được biết rằng chỉ hai ngày sau khi gặp
tôi, anh chàng người Bỉ trẻ tuổi đã lên tàu thuỷ đi mất. Chính cha Huismans
báo cho tôi tin đó, và cha Huismans, da rám nắng và khoẻ khoắn sau
chuyến đi của mình, có vẻ như không lấy gì làm lo lắng về chuyện mất đi
một giáo viên. Ông nói ông rằng mừng thấy cuốn sổ quyên góp trở về. Đó
là một phần của lịch sử thị trấn, những đứa trẻ từng ăn cắp sách có thể nhận
ra điều này vào một ngày nào đó.
Cha Huismans trạc bốn mươi tuổi. Ông không ăn vận theo lối tu sĩ, mà
thường mặc quần bình thường và áo sơ mi khiến ông có vẻ như không phải
người ở đây. Ông có khuôn mặt "dài ngoẵng" mà tôi nhận thấy là một số
người châu Âu – người A rập hay người Ba Tư và Ấn độ thì không bao giờ
- cũng có. Trên những gương mặt đó có cái gì đó trẻ con ở cái môi chẻ và
cái trán dô ra. Có vẻ như là những người đó đẻ thiếu tháng, họ có vẻ như đã
phải trải qua những tháng trầm tư rất sớm. Một số người trong đó đúng là
yếu ớt như vẻ ngoài của họ, một số rất cứng rắn. Cha Huismans rất cứng
rắn. Ấn tượng ông tạo ra là cái gì đó chưa hoàn thành, sự yếu ớt và cứng
rắn.
Ông rời khỏi bờ sông, đi thăm những ngôi làng ông biết, và ông mang
về nhà hai thứ - cái mặt nạ và bức chạm gỗ cũ kỹ. Ông thường xuyên muốn