huỷ. Nơi từng là khu ngoại ô châu Âu gần ghềnh nước đã bị thiêu huỷ, cây
bụi đã um tùm trên đống đổ nát, thật khó để phân biệt nơi trước đây từng là
vườn tược với nơi trước đây từng là phố xá. Khu hành chính, thương mại
gần cầu tàu và trạm hải quan cùng một số khu dân cư trung tâm vẫn còn,
nhưng dường như thế là hết. Ngay cả các cité (tiếng Pháp trong nguyên bản
– khu dân cư) châu Phi cũng chỉ còn thưa thớt người ở, và cũng đã suy tàn,
với nhiều ngôi nhà thấp hệt như bao diêm, màu xanh da trời hoặc xanh lá
cây nhợt nhạt bỏ hoang, bị giống nho nhiệt đới màu nâu và xanh lớn nhanh
và chết cũng nhanh xâm chiếm.
Cửa hiệu của Nazruddin nằm trên một quảng trường chợ tại khu phố
buôn bán. Nó đầy mùi chuột cống và đầy phân, nhưng được cái còn khá
lành lặn. Tôi đã mua lại cả nhà kho của Nazruddin – nhưng chẳng còn gì
trong đó. Tôi cũng mua được cả danh tiếng của cửa hiệu, nhưng điều này
chẳng mấy ý nghĩa bởi rất nhiều người châu Phi đã quay trở về với cây bụi,
về với sự an toàn trong những ngôi làng của mình, tại những khu kinh rạch
chằng chịt khó tìm.
Sau nỗi lo lắng khi vừa đến nơi, tôi thấy cũng không có nhiều việc để
làm. Nhưng tôi không đơn độc. Còn có các thương gia khác nữa, những
người nước ngoài khác, một số đã ở đây qua các cuộc biến động. Tôi cùng
họ chờ đợi. Hoà bình được giữ vững. Mọi người lại bắt đầu quay trở về
thành phố, từng mét vuông cité dần đông đảo lên. Người ta bắt đầu cần
hàng hóa mà chúng tôi có thể cung cấp. Và chầm chậm, công việc buôn
bán lại bắt đầu khởi sắc.
Zabeth thuộc số khách hàng sớm nhất và thường xuyên nhất của tôi.
Cô là một marchande [1] không phải người bán hàng ở chợ mà là bán lẻ
theo lối cò con. Cô thuộc một cộng đồng ngư dân, gần như là một bộ lạc
nhỏ, khoảng mỗi tháng một lần cô từ làng mình lên thành phố để mua buôn
hàng hóa.