cho tất cả những thứ đó vào một cái thùng gỗ. Tôi cũng nhét vào đó bức
tranh tường tôn kính mà bố tôi đã gửi Metty đem tới, và tôi cũng bắt Metty
nhét hộ chiếu và tiền của nó vào trong đó. Metty đã trở lại là một gia nhân,
lo lắng cho uy tín, thậm chí ngay cả vào lúc này, để làm sao cư xử thật
giống tôi. Tôi phải ngăn nó nhét đủ thứ linh tinh vào trong đó. Chúng tôi
đào một cái hố ngoài sân ngay dưới cầu thang lộ thiên – thật là dễ; không
có hòn đá nào trong đất đỏ - và chôn cái thùng gỗ xuống đó.
Lúc đó là sáng sớm. Sân sau nhà chúng tôi buồn tẻ, tầm thường với
ánh mặt trời và mùi những con gà nhà bên cạnh, tầm thường với lớp bụi đỏ
và những chiếc lá rơi cùng những bóng cây buổi sáng tôi từng biết khi còn
ở bờ biển, tầm thường đến nỗi tôi nghĩ: điều này thật là điên rồ. Một lúc sau
tôi nghĩ: mình đã phạm một sai lầm. Metty biết mọi thứ giá trị tôi có trong
chiếc thùng này. Tôi đã đặt mình vào tay nó.
Chúng tôi đi mở cửa hiệu, tôi vẫn bán hàng. Chúng tôi bán được một
chút ít vào giờ đầu tiên. Nhưng rồi quảng trường chợ trở nên vắng teo và
thị trấn yên ắng hẳn. Mặt trời chói chang, và tôi nhìn đăm đăm những bóng
cây cùng những sạp hàng, những toà nhà quanh quảng trường.
Đôi khi tôi nghĩ, tôi có thể nghe thấy tiếng của ghềnh nước. Đó là
tiếng ồn ào vô tận ở khúc quanh dòng sông này, nhưng vào một ngày bình
thường ở đây không thể nghe thấy tiếng đó. Giờ đây dường như nó đã tới
và tiếp với ngọn gió. Buổi trưa, khi chúng tôi đóng cửa hiệu để ăn trưa, và
tôi đi qua những con phố, chỉ có dòng sông ánh lên dưới cái nắng gay gắt,
là còn có vẻ sống động. Dù không có cá nược, chỉ những cây lan dạ hương
trôi nổi đến từ phía Nam, và trôi đi về phía Tây, từng lùm một, với những
bông hoa màu tím nhạt rất dày giống như những quả sồi.
Hôm đó tôi ăn trưa với cặp vợ chồng người châu Á đã có tuổi – họ
từng kinh doanh trong ngành vận chuyển cho tới khi độc lập, khi việc buôn
bán dừng lại, và những người khác trong gia đình bỏ đi. Không gì thay đổi
ở đó kể từ khi tôi thường xuyên đến ăn trưa với họ hai lần một tuần. Họ là