đó, tất cả những gì các em này được học từ một mullah là các tiết
trong kinh Koran. Tất nhiên giáo dục tôn giáo vốn vẫn quan trọng.
Nó luôn là một phần của chương trình học, nhưng khi còn đi học, tôi
đã được học nhiều hơn thế nhiều - lịch sử, địa lý, văn học tiếng
Ba Tư, toán, và khoa học. Nhưng giờ đây ai sẽ dạy những cậu bé này
tất cả các môn học đó chứ?
Trường học dành cho học sinh nam vẫn còn, nhưng không bắt
buộc nữa. Một số bậc phụ huynh đến giờ vẫn nghĩ được rằng có
chút học vấn vẫn hơn không. Nhưng cái chương trình giáo dục nghèo
nàn kiểu này liệu có thể mang lại điều tốt đẹp nào đây? Chính sách
tuyên truyền của bọn Taliban đã thâu tóm người dân quá nhanh.
Bây giờ, trong ba năm đầu đi học, các cậu bé phải đội một chiếc
mũ nhỏ và mặc quần vải truyền thống. Đến năm tám hoặc chín
tuổi, các em phải vận những chiếc khăn xếp màu trắng vẫn còn
quá rộng so với các em. Nhiều cậu bé ở khu chúng tôi không được
cho đi học nữa, vì cha mẹ đơn giản cho rằng các khóa học sẽ do
Taliban lựa chọn và kiểm tra. Thêm vào đó, nếu cậu bé nào có mẹ là
góa phụ, thì hãy quên hẳn chuyện học hành đi. Các cậu con đó sẽ phải
giúp mẹ đi bán bất cứ thứ gì có thể bán được trên đường phố, hoặc
đi ăn xin. Đối với những phụ nữ đã bị cách ly ra khỏi chế độ này,
con trai họ là phương tiện để sống sót.
Nếu so với những trẻ em này, tôi thật may mắn. Tôi chỉ không
được đi học nữa khi quân Taliban tràn vào mà thôi. Tôi đi học tiểu
học năm lên năm, dưới thời Liên Xô đóng quân. Từ năm chín đến
mười hai tuổi, cuộc Nội chiến giữa lực lượng Kháng chiến và chế
độ Cộng sản không tác động mấy đến việc học hành của tôi. Rồi
dưới thời Nhà nước Hồi giáo được thành lập bởi lực lượng Kháng
chiến, tôi tốt nghiệp phổ thông và đã tham gia kỳ thi đầu vào đại
học, khoa báo chí.