Còi tàu rúc lên một hồi dài. Sợi dây cáp lại đập xuống mặt nước. Trong
bóng đêm dày đặc, một đốm đèn lồng lắc lư chỉ cho biết chỗ nào là bến tàu.
Từ trong bóng tối, hiện ra vài đốm lửa nữa.
- Rừng “Say”. – Bác đầu bếp càu nhàu. – Và có cả sông “Say” nữa. Có
một tay quân nhu tên là “Say”, rồi thư kí cũng “Say”… Thôi, phải lên bờ cái
đã…
Một đám đàn bà con gái to lớn vùng sông Kama khiêng củi trên những
cái cáng dài từ trên bờ xuống tàu. Khom lưng dưới dây đeo, họ đi từng đôi,
nhún chân như nhảy múa tới phía hầm lò và trút những thanh củi dài nửa
sazhen
vào cái hầm đen ngòm, miệng kêu vang:
- Từ từ chứ!
Khi họ mang củi xuống, bọn thủy thủ liền sờ soạng vào vú, vào đùi họ.
Lũ đàn bà hét inh ỏi, nhổ nước bọt vào bọn đàn ông. Khi quay lên bờ, họ
dùng cáng để chống đỡ, đánh những kẻ định cấu véo và xô đẩy họ. Tôi thấy
những cảnh tượng đó hàng chục lần: Trong mỗi chuyến đi, ở tất cả các bến
mà tàu dừng để lấy thêm củi đều xảy ra những trò như vậy.
Tôi có cảm giác như mình đã già, đã sống nhiều năm trên cái tàu thủy
này và biết hết mọi điều xảy ra trên tàu trong ngày mai, tuần sau, trong mùa
thu và cả sang năm nữa.
Trời hửng sáng. Trên bờ cát dốc cao hơn bến tàu hiện ra một rừng
thông rậm rạp. Những người đàn bà leo dốc về phía rừng, vừa hát vừa cười
vừa hú… Vũ trang bằng những cái cáng dài, trông họ như những người lính.
Tôi muốn khóc. Nước mắt sục sôi trong ngực. Trái tim như bị nung
trong đám nước mắt nóng bỏng đó. Tôi đau nhói cả người.
Nhưng khóc thì thật đáng xấu hổ, nên tôi đi giúp anh thủy thủ Blyakhin
rửa boong tàu.
Blyakhin là một con người tầm thường không có gì đặc sắc. Vẻ nhợt
nhạt, ủ rũ, lúc nào cũng chui vào các xó xỉnh và từ xó tối đó chỉ thấy ánh lên
hai đốm mắt nhỏ xíu.