nào, tức là phải học mới được! Chú em ạ, sách vở như một khu vườn tuyệt
diệu, nơi đây có tất cả những điều lí thú và bổ ích…
Tôi hay phải chạy tới hiệu thuốc của ông để mua xút và bột magnesium
oxide cho chủ vì họ thường xuyên đầy bụng, hoặc mua thuốc mỡ và thuốc
tẩy cho bọn trẻ con. Những lời khuyên bảo vắn tắt của ông dược sĩ khiến tôi
ngày càng có thái độ kính trọng sách vở. Dần dần, sách vở trở nên gắn bó
với tôi như rượu vodka gắn với kẻ nát rượu.
Sách vở dẫn dắt tôi tới một cuộc sống khác hẳn – đầy tình cảm và mơ
ước lớn lao có thể đưa người ta tới sự nghiệp cao cả và cả tội lỗi. Tôi thấy
những người quanh tôi không có khả năng làm điều hay hoặc điều dở, họ
sống ngoài rìa cuộc sống được nêu lên trong sách, và thật khó mà tìm được
trong đời họ một cái gì thú vị. Tôi không muốn sống cuộc sống như vậy…
Điều đó tôi đã quyết, tôi không muốn thế.
Qua những lời chú thích dưới các bức tranh ảnh, tôi biết rằng ở Praha,
London, Paris… không có các rãnh hào và đường sá bẩn thỉu đầy rác giữa
lòng thành phố. Ở đấy phố xá thẳng và rộng, nhà ở, nhà thờ cũng đều khác
cả. Ở đấy không có những mùa đông dài hàng nửa năm trời hãm người ta
ngồi nhà, không có những tuần chay lớn chỉ được ăn dưa cải chua, nấm
muối, bột lúa mạch và khoai với cái món dầu gai đáng ghét.
Trong tuần chay lớn không được đọc sách. Nhà chủ tước mất tập Bình
luận về hội họa của tôi, và cái cuộc sống ảo não trống rỗng lại đến kèm sát
tôi. Bây giờ tôi đã có thể so sánh cuộc sống của tôi với những cuộc sống mà
tôi được biết qua sách vở, tôi thấy nó càng nghèo nàn và quái gở hơn. Khi
đọc sách, tôi thấy mình khỏe hơn, mạnh hơn. Tôi làm việc trôi chảy và khéo
léo vì có một mục tiêu rõ ràng: Việc càng chóng xong thì càng dư thời gian
đọc sách. Bị lấy mất sách, tôi đâm ra uể oải, lười biếng. Tôi bắt đầu đãng trí
bất thường, việc mà trước kia chưa từng xảy ra.
Tôi còn nhớ chính trong những ngày trống rỗng đó đã xảy ra một
chuyện thật bí ẩn: Một buổi tối, khi mọi người đã đi nằm, chuông nhà thờ