nhà bà. Bám sát bà nhất là ông thiếu tá Olessov. Ông ta có đôi chân ngắn
cũn cỡn, người to béo, tóc đốm bạc, mặt đỏ gay và nhầy mỡ, hệt như anh thợ
máy trên tàu thủy. Ông chơi đàn ghi ta rất hay. Ông có vẻ giống người đầy tớ
trung thành và ngoan ngoãn của thiếu phụ.
Đứa con gái nhỏ năm tuổi tóc quăn, mũm mĩm, cũng đẹp lộng lẫy như
mẹ. Cặp mắt xanh to của cô bé có vẻ nghiêm trang, điềm tĩnh chờ đợi. Dáng
điệu cô bé có một vẻ chín chắn người lớn.
Người bà thì từ sáng đến tối bận rộn công việc nội trợ với anh
Chulpayev lầm lì, cau có và người hầu gái to béo mắt hiếng. Cô bé không có
vú nuôi. Nó hầu như không có ai săn sóc, suốt ngày chơi ngoài hiên hay trên
đống gỗ. Chiều chiều, tôi đến chơi với nó và thấy rất mến con bé ấy. Nó
cũng rất chóng quen tôi. Khi tôi kể chuyện cổ tích, nó nằm ngủ thiếp trên tay
tôi. Khi nó ngủ, tôi bế nó vào giường. Chẳng bao lâu nó quen tôi đến nỗi
trước khi ngủ thế nào cũng đòi cho được tôi đến chia tay. Khi tôi đến, nó
trịnh trọng duỗi bàn tay mũm mĩm ra cho tôi:
- Chào anh, ngày mai lại gặp nhé! Bà ơi, phải nói thế nào hở bà?
- Cầu Chúa che chở cho anh. – Người bà vừa nói vừa thở phào luồng
khói xám ra khỏi miệng và cái mũi nhọn.
- Cầu Chúa che chở cho anh đến ngày mai nhé, còn em thì đi ngủ đây. –
Cô bé nhắc lại rồi chui vào cái chăn viền đăng ten.
Người bà khuyên:
- Không phải “đến ngày mai” mà là “mãi mãi” chứ!
- Nhưng ngày mai vẫn là mãi mãi cơ mà, hở bà?
Nó thích dùng từ “ngày mai”, và những gì nó thích đều được chuyển về
thì tương lai cả. Khi cắm xuống đất những bông hoa và cành gãy, nó nói:
- Ngày mai đây sẽ là một vườn hoa…
- Ngày mai em cũng sẽ mua một coong ngựa và em sẽ cưỡi lêêng
trêêng như mẹ em ấy…