Mây thu không ngớt gieo xuống những hạt mưa nhỏ. Hình như cứ mỗi
lần người hành khách đó lấy cái khăn tay kẻ ô ra lau mồ hôi trên mặt thì
mưa rơi nhẹ, lúc nào ông ta ra nhiều mồ hôi thì mưa càng nặng hạt.
Chẳng bao lâu, anh Yaakov đã quẩn quanh bên ông ta. Họ bắt đầu cùng
nhau xem bản đồ. Người khách lấy tay chỉ lên bản đồ, còn anh thợ đốt lò thì
bình thản nói:
- Cũng được! Chẳng sao. Tớ cóc cần…
- Tốt lắm. – Người khách nói với giọng nhỏ nhẻ, sau khi đã nhét quyển
lịch vào cái túi da hé mở phía dưới chân.
Họ bắt đầu uống trà và nói chuyện thì thầm.
Trước khi anh Yaakov làm việc, tôi hỏi anh người khách kia là ai. Anh
cười tủm tỉm:
- Thấy chưa, hình như dân hoạn đấy, chú em ạ! Ông ta từ Siberia tới, xa
lắm! Ông ta cũng ngộ nghĩnh đấy chứ, sống theo kế hoạch hẳn hoi…
Anh bỏ đi, hai gót chân đen sì và rắn chắc như móng ngựa giậm trên
boong tàu, nhưng anh lại dừng lại và gãi hông.
- Tớ sẽ đi giúp việc cho ông ta đấy! Khi nào tới Perm, tớ sẽ xuống tàu
và vĩnh biệt Alyosha nhé! Tớ sẽ đi tàu hỏa, sau đó sẽ đi đường thủy, rồi lại
còn đi ngựa nữa. Phải đi mất đâu những năm tuần cơ đấy. Chà, con người ta
chỗ nào mà chả tới được…
- Anh quen ông ta à? – Tôi hỏi và lấy làm ngạc nhiên vì quyết định bất
ngờ của anh Yaakov.
- Quen ở đâu? Tớ chưa bao giờ gặp ông ta trước đây và cũng chưa từng
sống ở những nơi ông ta đã sống…
Sáng hôm sau, anh Yaakov mặc áo khoác ngắn đầy dầu mỡ, chân đi
giày cũ, đầu đội mũ cối rách long vành của bác “Gấu con”, nắm chặt tay tôi
trong những ngón tay cứng như gang của anh mà nói: