đếm đi đếm lại hàng ngàn lần và cái mạng lưới nặng nề đầy hình thù quái gở
ấy vĩnh viễn khắc ghi trong trí nhớ của tôi.
Khách bộ hành thong thả bước trên vỉa hè. Những chiếc xe ngựa, xe
trượt tuyết chở hàng chậm rãi di chuyển trên phố. Phía sau dãy phố, giữa
những khối cửa hiệu hai tầng bằng gạch đỏ là quảng trường ngổn ngang
thùng hộp, rơm rác, giấy bọc nhàu nát, bị những lớp tuyết bẩn thỉu phủ đầy.
Tất cả những cảnh vật đó, cùng với người và ngựa, tuy di chuyển
nhưng trông như không nhích thêm một chút nào, chỉ lười biếng xoay quanh
một chỗ. Sự dịch chuyển như bị gắn chặt vào chỗ ấy bằng những sợi dây vô
hình. Tôi bỗng cảm thấy cuộc sống đó như thể không có lấy một tiếng vang,
nó nghèo nàn âm thanh đến gần như câm lặng. Thanh trượt của xe trượt
tuyết kêu ken két, cửa các hiệu đập thình thình, những người bán bánh
nướng, chè đường rao hàng, nhưng tiếng của họ vang lên buồn buồn, miễn
cưỡng. Mọi âm thanh ấy đều đơn điệu khiến ta nghe chóng quên và không
chú ý tới chúng nữa.
Tiếng chuông nhà thờ ảo não như đưa tang. Tiếng ngân ai oán ấy lúc
nào cũng như còn vọng mãi trong tai. Dường như từ sáng đến tối nó không
ngớt chơi vơi trong khoảng không gian của khu chợ. Nó phân chia mọi ý
nghĩ, mọi xúc cảm thành từng lớp và như những lớp cặn đồng nằm chặn trên
mọi cảm tưởng.
Sự buồn chán lạnh lẽo tỏa lên từ khắp mọi nơi: Từ mặt đất phủ đầy
tuyết bẩn, từ những đống tuyết xám trên mái nhà, từ các viên gạch đỏ bầm
của mấy ngôi nhà lớn. Nỗi buồn tỏa ra từ các ống khói trong làn khói xám
tràn kín bầu trời ảm đạm, thấp và trống rỗng. Nỗi buồn tỏa ra trong hơi thở
của người và ngựa. Nó có mùi vị riêng, một mùi nặng nề phảng phất của mồ
hôi, của mỡ, của dầu gai, của bánh nướng và của khói. Mùi vị đó siết chặt
đầu ta như một chiếc mũ ấm và chật, nó ùa vào ngực khiến ta choáng váng,
gây cho ta mong muốn nhắm tịt mắt, la hét một cách tuyệt vọng rồi bỏ chạy
và theo đà mà đâm đầu vào bức tường đầu tiên.