ngồi xổm xuống, lấy tay bới đám lá, để lộ ra một cái rễ cây lớn, hai bên chèn
hai hòn gạch vùi sâu xuống đất.
Nó nhấc gạch lên. Dưới hai hòn gạch là một tấm tôn. Dưới tấm tôn còn
một mảnh ván hình vuông. Cuối cùng, trước mắt tôi hiện ra một cái hang to
nằm sâu dưới rễ cây.
Sascha đánh diêm, đốt một mẩu nến cháy dở, luồn mẩu nến vào trong
hang và bảo:
- Nhìn xem? Cốt là đừng có sợ…
Nhưng rõ ràng là chính nó cũng sợ. Mẩu nến trong tay nó rung rung.
Mặt nó tái đi, đôi môi trễ ra nom rất khó coi, cặp mắt trở nên ươn ướt. Nó
giấu cánh tay kia ra sau lưng. Sự kinh hãi của nó lây sang tôi. Tôi dè dặt
nhìn cái hang dưới rễ cây. Khúc rễ làm thành vòm hang. Trong cùng, Sascha
đốt ba ngọn nến, khiến cả hang tràn ngập một ánh sáng xanh nhờ nhờ. Hang
khá to, sâu cỡ lòng một cái thùng nhưng rộng hơn, hai bên thành lát những
miếng kính xanh đỏ và những mảnh ấm chén vỡ. Giữa hang, trên mô đất phủ
vải đỏ là một chiếc quan tài nhỏ bọc giấy thiếc, một nửa quấn bằng một
miếng vải liệm trông giống bằng gấm. Từ dưới tấm vải liệm nhô ra hai cái
chân xám ngắt và một cái đầu chim sẻ mỏ nhọn hoắt. Một bàn thờ nhô cao
sau quan tài, trên có đặt một cây thánh giá nhỏ bằng đồng mà người ta
thường đeo trước ngực. Xung quanh bàn thờ, ba mẩu nến đang cháy trên
những chân nến quấn giấy trang kim bọc kẹo.
Đầu ba ngọn lửa hướng về phía cửa hang. Các tia lửa – các đốm xanh
đỏ tím vàng – chiếu sáng lờ mờ. Mùi sáp nến, mùi xác rữa và mùi đất nồng
nồng phả vào mặt tôi. Những mảnh cầu vồng nhảy nhót, lấp lánh trước mắt.
Tất cả những thứ đó gây nên một nỗi kinh ngạc nặng nề khiến tôi không cảm
thấy sợ nữa.
- Có đẹp không? – Sascha hỏi.
- Cái này để làm gì thế?
- Miếu thờ đấy. – Nó giải thích. – Có giống không?