- Hay là trời sinh ra đàn bà để làm trò cười?…
Màn đêm dần buông. Không khí trong lành hơn. Tiếng ồn ào nhỏ dần.
Những ngôi nhà gỗ như phồng ra, lớn lên, đắm mình vào bóng tối. Bọn con
nít đã được đưa về nhà đi ngủ. Một số ngủ ngay bên các hàng rào, dưới chân
hay trong lòng các bà mẹ. Trong bóng đêm, bọn trẻ lớn tuổi cũng trở nên
hiền lành, dịu dàng hơn. Bác Evseyenko không biết lẩn đi đâu từ lúc nào tựa
như có phép biến. Mụ hàng chiếu cũng không còn đó. Tiếng phong cầm
trầm trầm vang lên xa xa, sau nghĩa địa. Mẹ Ludmilla ngồi trên ghế dài,
người rúm ró, lưng khòm khòm như một con mèo. Bà tôi sang nhà láng
giềng uống trà – một bà đỡ kiêm bà mối. Mụ ta người to lớn, gân guốc, có
cái mũi như mỏ vịt và một chiếc mề đay vàng “cứu người lâm nạn” đeo
trước bộ ngực lép kẹp như ngực đàn ông. Cả phố đều sợ mụ vì cho mụ là
phù thủy. Người ta đồn rằng mụ đã cứu khỏi vòng lửa ba đứa con và một
người vợ ốm của ông đại tá nào đó trong một trận hỏa hoạn.
Bà tôi rất thân với mụ. Gặp nhau ngoài phố, cả hai cười với nhau từ xa
với vẻ thân thiện đặc biệt.
Kostrom, Ludmilla và tôi ngồi với nhau trên chiếc ghế dài bên cổng.
Tchurka rủ anh của Ludmilla vật nhau. Hai đứa ôm nhau, giậm chân trên cát
làm bụi mù cả lên.
- Thôi đừng vật nhau nữa! – Ludmilla sợ hãi yêu cầu.
Kostrom liếc cặp mắt đen về phía Ludmilla rồi bắt đầu kể chuyện lão
thợ săn Kalinin mà cả xóm đều biết tiếng vì những “thành tích” bất hảo.
Đó là một lão già râu tóc bạc phơ có đôi mắt láu lỉnh. Lão mới chết
cách đây ít lâu, người ta không chôn lão xuống đất trong nghĩa địa mà lại đặt
quan tài trên mặt đất, tách xa các ngôi mộ khác. Chiếc quan tài đen sì, có
chân cao. Trên nắp quan tài vẽ một cây thập ác, một cây giáo, một cái gậy và
hai khúc xương bằng sơn trắng.
Đêm nào cũng vậy, cứ trời tối là lão già lại từ trong quan tài nhỏm dậy
lang thang trong nghĩa địa như tìm kiếm gì đấy cho đến tận khi gà gáy lần
thứ nhất.