đầu lắc quan tài để chui ra cũng vậy. Nếu nhảy xuống đất, tôi thua.
- Liệu chừng. – Valyok giao hẹn. – Tao sẽ theo dõi mày suốt đêm!
Khi tôi ra nghĩa địa, bà làm dấu thánh rồi khuyên:
- Nếu có thấy gì, cháu đừng cựa quậy, cứ đọc kinh Kính mừng…
Tôi rảo bước, lòng muốn chóng bắt đầu và kết thúc tất cả mọi sự.
Valyok, Kostrom và vài thanh niên nữa đi theo tôi. Khi leo qua dãy tường
gạch, tôi vướng chân, ngã xoài, nhưng tôi vội đứng phắt lên, tựa như người
bị nảy trên mặt cát. Bên kia bức tường, bọn đi theo cười ha hả. Ngực tôi thắt
lại, lưng nổi gai ốc.
Tôi vừa đến chỗ chiếc quan tài đen thì lại bị vấp. Một bên quan tài lún
xuống cát, bên kia lộ ra những chân đế ngắn và to, tựa như có người nào đó
cố nâng nó lên và đẩy xiêu sang bên. Tôi ngồi lên góc phía đuôi quan tài,
nhìn quanh: Những cây thánh giá màu xám dựng ngổn ngang chi chít trên
khu nghĩa địa đầy gò đống, những bóng đen vươn dài trên các ngôi mộ, ôm
lấy các gò đất lởm chởm. Đây đó, dăm cây bạch dương thanh mảnh, khẳng
khiu nhô lên lạc lõng giữa đám thánh giá, cành lá của chúng nối liền những
ngôi mộ riêng biệt lại với nhau. Những ngọn cỏ thấp thoáng giữa bóng cây
loang lổ như một tấm ren. Cái đám lởm chởm xám xịt ấy trông khủng khiếp
nhất. Ngôi nhà thờ in trên nền trời như một khối tuyết lớn. Mặt trăng lưỡi
liềm nhỏ bé chiếu sáng giữa những đám mây im lìm.
Bố thằng Yaz – “lão bần nông bẩn thỉu” – uể oải điểm chuông cầm
canh. Mỗi lần bác kéo dây chuông, dây lại mắc vào tấm tôn trên mái, kêu cót
két một cách ai oán, sau đó vang lên tiếng đập khô khan của cái chuông con,
ngắn ngủi và tẻ ngắt.
“Lạy trời đừng làm tôi mất ngủ!” – Tôi chợt nhớ đến câu ngạn ngữ bác
thường nói.
Thật là kinh khủng. Và không hiểu sao mà ngột ngạt đến thế. Tôi toát
mồ hôi đầm đìa, tuy trời đêm mát mẻ. Nếu lão Kalinin mò ra khỏi mộ, liệu
tôi có kịp chạy đến chòi canh không?