định dựa trên sự tổ hợp duy nhất các yếu tố trên một hệ thống
dòng kẻ hai chiều. Để minh họa điều này, hãy nghĩ đến cụm từ
“khép kín” và “mở rộng” và bên kia là “thuần lý”và “xã hội”. Bây giờ,
hãy nhìn vào dòng thứ nhất, đi từ “khép kín” đến “mở rộng”. Dòng
này xuất phát từ quan niệm có tính cơ học về tổ chức (khép kín)
đến quan niệm về cấu trúc (mở rộng). Đối lập với quan niệm
đang thống trị hiện nay, các nhà lý luận về quản lý trong những
năm 1960 đã không quan tâm đến môi trường, cạnh tranh, thị
trường, hoặc bất cứ điều gì nằm ngoài tổ chức. Họ có một thế giới
quen thuộc, đó là thế giới của “hệ thống khép kín”. Quan niệm này,
cho dù ngày nay bị coi là thiển cận, tập trung vào những gì cần
thiết để tối ưu hóa tài nguyên bằng cách chỉ quan tâm đến những
gì diễn ra bên trong một công ty. Quan điểm ấy được duy trì mãi cho
đến năm 1960, khi các nhà lý luận bắt đầu nhìn nhận thấy rằng
động thái bên trong tổ chức được hình thành do các biến cố đến
từ bên ngoài. Khi đó, việc quan tâm đến tác động của các lực lượng
bên ngoài đối với việc vận hành bên trong tổ chức, đã chính thức
khai mở thời kỳ “hệ thống mở”.
Chiều thứ hai trong hệ thống của Scott là từ “thuần lý” đến
“xã hội”. “Thuần lý” ở đây nghĩa là có những mục tiêu và mục đích
cho tổ chức, và những mục tiêu và mục đích này có thể xác định được
rõ ràng. Chẳng hạn, nếu công ty của bạn đang kinh doanh trong lĩnh
vực khai mỏ, mục tiêu của bạn phải là tối đa hóa lợi nhuận từ các
hầm mỏ hiện tại và các hoạt động khai thác trong tương lai. Nếu
chúng ta xem các mục đích và các hàm số mục tiêu nói trên là có
sẵn, thì ban lãnh đạo cấp cao chỉ việc lựa chọn các phương tiện hiệu
quả nhất để hoàn thành các mục tiêu. Các quyết định thuần lý có
thể được mô tả trên biểu đồ theo cách như vậy. Mặt khác, “xã hội” có
nghĩa là nhìn nhận sự hỗn loạn trong việc quyết định các mục tiêu
và hàm ý rằng sự lựa chọn mục tiêu không mang tính chất rõ ràng
hoặc mang tính suy diễn (Chẳng hạn, trong ví dụ của chúng tôi trong