được sự thích nghi trong các doanh nghiệp lớn. Thay vào đó, nó
thường chỉ đưa ra các quy tắc về cơ cấu và các bài tập kế hoạch
hoá, tuy nhiên, cả hai hình thức này đều khá cứng nhắc trong việc
khắc chế nhu cầu này.
Hai vấn đề trên đều phát sinh từ tính chất phức tạp vốn có
của các tổ chức lớn, mặc dù nó đã được các công ty thành công vượt
trội giải quyết trên một nền tảng đặc biệt. Thật vậy, các tổ chức lớn
quá phức tạp nên không thể quản lý theo các quy tắc sách vở, do đó
để đơn giản hoá vấn đề, các nhà quản lý sử dụng một vài giá trị siêu
việt để bảo vệ các mục tiêu chủ yếu. Trong một công ty lớn, việc quản
lý các quy tắc thích nghi cũng quá phức tạp, vì thế các nhà quản lý
hàng đầu sẽ cần bảo đảm để một số các “biến thái mang tính thử
nghiệm” xuất hiện một cách tương đối (nghĩa là những thử nghiệm
hoàn chỉnh, dù có thành công hay không) nhằm thoả mãn các quy
luật xác suất, bảo đảm cho một số người cá biệt, táo bạo xuất hiện
do sự tình cờ, và một sản phẩm do điều hành chỉ xảy ra một lần
trong một thập niên.
Chúng ta cần có cách diễn đạt mới. Chúng ta cần xem xét việc
bổ sung vốn từ vựng quản lý: Một nhóm nhỏ từ ngữ đó có thể là cơ
cấu tạm thời, các nhóm đặc biệt, các tổ chức di động, quy mô nhỏ
tuyệt vời, chủ nghĩa gia tăng từng bước, sự thực nghiệm, định hướng
và hành động, những mô phỏng, sự thử nghiệm, các biến dạng
không được xác định, sự cạnh tranh nội bộ, tính khôi hài, công nghệ
cũ, các nhà xưởng tồi tàn, những mưu đồ, và những tổ chức tội
phạm. Mỗi từ ngữ vừa bao hàm sự thiếu rõ ràng vừa là nhu cầu
hành động. Và điều quan trọng hơn, chúng ta cần các phép ẩn dụ
và mô hình mới để nối liền các từ ngữ này lại thành một mạch văn
cụ thể, rõ ràng, và có ý nghĩa.
Như chúng tôi đã nhận xét, kèm với sự ẩn dụ về một “cái thùng
rác”, James March đã đưa ra một mô hình ra quyết định, trong đó