thành các khúc tuyến hình chữ S mới (các mô hình tăng trưởng mới
chủ yếu) trong các ngành công nghiệp tương đối tĩnh lại, tôi không
tìm ra một trường hợp nào sự tăng tiến đang đề cập lại xuất phát
từ một công ty lớn trong ngành”. George Gilder dẫn giải thêm về tác
phẩm của Klein: “Bản thân các quá trình giúp một công ty đạt năng
suất cao nhất lại có xu hướng làm cho chính nó trở thành kém linh
động và kém sáng tạo hơn”
Như vậy là sự biến đổi liên tục xảy ra ở thị trường; sự thích nghi
là điều chủ chốt; và ít có − nếu không muốn nói rằng không có
− công ty lớn nào thoát khỏi bối cảnh này. Phần lớn các công ty
thành công vượt trội đều có thể không ở trong tình trạng phát triển
liên tục. Chúng tôi chỉ muốn lập luận rằng họ đã vượt qua một
quãng đường dài, dài hơn hơn phần lớn các công ty khác và đang
tiến gần đến việc duy trì được đồng thời cả sự thích nghi lẫn quy
mô hiện tại.
Chúng tôi tin rằng, lý do chủ yếu của tình trạng này, mà mãi
gần đây mới được các nhà lý luận quản lý quan tâm đến, đó là sự
phát triển được chú ý gieo mầm từ bên trong công ty. Các công ty
thành công vượt trội là những tổ chức học tập. Họ không chờ thị
trường mà tự tạo ra thị trường nội bộ của riêng họ. Người ta ghi nhận
rằng phép mầu quản lý thật sự của IBM vào thời điểm công ty
chiếm lĩnh được 90% thị trường, là tạo ra nỗi ám ảnh về các đối
thủ cạnh tranh. Điều lý thú là các công ty hàng đầu đã triển khai
rất nhiều cách thức cũng như thủ tục quản lý để ngăn chặn tình
trạng trì trệ. Họ thí nghiệm, khuyến khích thử nghiệm nhiều hơn,
và cho phép nhân viên có những thất bại nhỏ; họ giữ quy mô hoạt
động nhỏ; chúng tương tác nhiều hơn với khách hàng – đặc biệt là
các khách hàng chủ chốt; khuyến khích cạnh tranh nội bộ và cho
phép sự trùng lặp do sự cạnh tranh ấy mang lại; duy trì một môi
trường thông tin phong phú, cổ vũ sự hòa hợp các quan niệm đang