Các trạm transistor đã được triển khai để phục vụ một thiết bị nhỏ
dùng trong quân sự. Thoạt đầu, các đầu máy diesel chỉ có ích trong
việc chuyển vận hàng hoá trong bến. Máy photocopy ban đầu đã
chỉ nhắm vào một phần nhỏ hiện có của thị trường in thạch bản;
việc sao chụp hàng loạt hoàn toàn không phải là mục đích chính
trong việc sáng chế lẫn việc tiếp cận thị trường vào thời kỳ ban
đầu.
Vì vậy, lý thuyết quản lý mang tính tiến hoá, phần nào mang
tính hỗn độn, đúng cho cả các sáng kiến quy mô lớn lẫn quy mô nhỏ,
và cho kết quả tốt. Một yếu tố cuối cùng của lý thuyết đáng
được nêu rõ hơn. Trong sinh vật học, sự cô lập có thể gây ra tai họa
cho một khu vực hình thái hoạt động. Các sự đột biến (tương ứng với
các thử nghiệm sản phẩm mới) đôi khi có thể xảy ra, nhưng các sự
tuyển lựa (tức là các thành công) thì không chắc sẽ có. Vì vậy, quá
trình diễn biến của thế hệ đột biến (các cuộc thử nghiệm, các thí
nghiệm, các sai lầm) phải đối phó, không phải với tình trạng cô lập,
mà với các nhu cầu và cơ hội kinh doanh thật sự. Giải pháp của công
ty thành công vượt trội là để cho quá trình ấy diễn ra thông qua
nhiều mối tác động qua lại với môi trường, nghĩa là, với khách
hàng. Cả ở đây, lý luận truyền thống cũng thiếu sót một cách đáng
buồn trong việc giải thích thực tiễn diễn ra tại các công ty thành
công vượt trội.
Lý luận quản lý trải qua một bước ngoặt lớn khoảng 15 năm trước
đây qua công trình nghiên cứu của Lawrence và Lorsch thực hiện
năm 1967. Cuối cùng thì môi trường đã xâm nhập vào các mô hình
tổ chức. Vào năm 1978, hai thành viên hàng đầu của lý thuyết tiến
hoá, hai nhà nghiên cứu trẻ kiệt xuất Jeffrey Pfeffer và Gerald
Salancik đã ấn hành tác phẩm Inveronments and Organization (Sự
kiểm soát ngoại vi của các tổ chức). Cũng vào năm đó, Marshall
Mayer xuất bản cuốn Environments and Organizations (Môi