biểu: “Đó là sai lầm mà Procter&Gamble không bao giờ phạm phải.
Trong lĩnh vực này, bạn học cách chế tạo ra các sản phẩm đơn giản
và mang tính chức năng. Colgate lại theo con đường đi tìm công ty
khác để sáp nhập thêm vào!”
Câu chuyện đó giờ đây đã trở thành quen thuộc, có lẽ chỉ khi có
được cái kết có hậu là quay trở lại hiện trạng ban đầu. Công ty kết
luận rằng mình đang ở trong tình trạng kinh doanh chậm chạp. Họ
quyết định tiến xa hơn. Họ không hiểu rõ mình mua cái gì. Họ mua
các công ty đang ở thời kỳ đỉnh cao hay đã vượt qua đỉnh cao lợi
nhuận . Ngoài ra, công ty cũng không hiểu rõ tính phá hoại tàn khốc
của chúng, nỗ lực cùng việc chú trọng chuyển sang công tác quản lý
của các công ty mới mua lại sẽ làm cạn hết sinh lực của ngành kinh
doanh cốt lõi vốn không vững vàng cho lắm. Các sản phẩm mới
(khuyếch trương các mặt hàng hay cải tiến các sản phẩm cũ) được
đề ra trong một thời gian ngắn hoặc bị “cắt ngang” như trường
hợp của Colgate. Và vòng xoáy trôn ốc đi xuống diễn ra.
Song cái kết có hậu cho việc mua lại các công ty mới ít ra cũng
đang trở nên quen thuộc hơn. Chỉ trong có một ngày cuối năm
1980, tờ New York Times đã thuật lại việc giải bỏ đầu tư của các
công ty như Litton, Textron và GAF. Giờ đây, người ta gặp những tin
như vậy thường xuyên hơn. Năm 1981, chẳng hạn, một bài báo trên tờ
BusinessWeek đã ghi nhận rằng công ty ITT đã tự mình loại bỏ 33
doanh nghiệp kể từ năm 1979. Tờ Fortune, năm 1981, cũng cho biết
Consolidated Foods đã bán bớt đi 50 doanh nghiệp trong vòng năm
năm vừa qua. Một bài báo trên tờ New York Times bình luận về
GEC của Anh, giờ đây đang gấp rút giải bỏ các công ty đã sáp nhập,
chủ tịch hội đồng quản trị của công ty, đã nhận xét: “Người ta có thể
nói rằng tua-bin gắn với bộ phận phân phối điện, bộ phận phân
phối gắn với biến điện, biến điện gắn với bộ phận kiểm soát, bộ
phận kiểm soát gắn với các bóng đèn. Song các bóng đèn chẳng có