5. Nhà quản lý cấp cao cùng nhân viên bị cô lập trong các tháp ngà
phân tích của bản thân.
Lời phê phán các trường kinh doanh có vẻ gây ra nhiều phản ứng
nhất, hiển nhiên là vì chúng tượng trưng cho những chủ đề còn lại
và rất dễ phê bình. H. Edward Wrapp, một giáo sư am hiểu về
chính sách kinh doanh tại Đại học Chicago, đã nhận xét: “Chúng ta
đã tạo ra một con ác quỷ. Một đồng nghiệp của tôi từng nhận xét
như vậy, và tôi đồng ý với anh ta rằng các trường kinh doanh đã
làm mọi việc có thể để bảo đảm sự thành công của người Nhật và
người Đức trong cuộc xâm lăng kinh tế tại Mỹ”. Wrapp tiếp tục chỉ
trích các trường kinh doanh đã quá nhấn mạnh vào những phương
pháp định lượng. Trong kết luận đăng trên tờ New York Times,
Steve Lohr rõ ràng đã thừa nhận rằng, giờ đây có “một quan điểm
phổ biến cho rằng bằng Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh (MBA) có
thể là một phần của vấn đề đang tồn tại”. Nhà phê bình khác lại
đưa ra một toa thuốc đơn giản để giải quyết vấn đề − chúng tôi
không hoàn toàn phản đối. Michael Thomas, cựu chủ tịch ngân
hàng đầu tư rất thành công trước đây và cũng là một tác giả đầy
sáng tạo, đã viết: “Họ thiếu hiểu biết về nghệ thuật tự do… và
cần một nhãn quan rộng lớn hơn, một cảm thức về lịch sử, những
viễn cảnh về văn học và nghệ thuật… Giá như có quyền, tôi sẽ đóng
cửa mọi trường kinh doanh”. Các nhà quan sát đồng thời là nhà thực
hành cũng nêu lên những quan điểm tương tự. Một nhà điều hành
tại National Semiconductor phát biểu: “Các nhân viên có bằng đại
học Harvard và thạc sỹ của Stanford chỉ làm việc khoảng 17 tháng. Họ
không thể thích ứng (với tính linh hoạt và vấn đề thiếu cơ cấu tổ
chức).”
Gần đây, xuất hiện một cách giải thích rất độc đáo về lời phàn
nàn đối với các trường kinh doanh. Khi Rene McPherson của Dana,
nổi danh vì nâng cao năng suất của một ngành công nghiệp có tổ