phía chỗ từng có một cánh tay. “Tôi đã cố pha trò. Em cho anh mượn một
tay được không? Cô ấy đã thực sự bật khóc tức tưởi.”
“Từng ngày một thôi. Sẽ có những con người ở bên anh. Và đây là
một con đường dài. Chúa ơi, lạy Chúa, hẳn ba câu sáo rỗng liên tiếp. Tôi
cảm thấy không khỏe.”
Sales đã kìm được nước mắt. “Ở đây có nhà tư vấn nào tốt. Anh giới
thiệu cho tôi một người sau khi tôi ra viện được không?”
Rhyme nói, “Cái đó tôi thử rồi. Không ăn thua. Họ…” Anh nhìn sang
Thom. “Nói thế nào ấy nhỉ?”
“Bỏ chạy.”
Rhyme nhún vai.
“Nhưng hầu hết mọi người đều có ích. Tôi có thể lấy cho cậu vài cái
tên.”
“Cảm ơn.”
Nhưng Rhyme cảm giác những câu hỏi về việc sống chung với thảm
kịch chỉ là bề nổi, là mũi khoan phá băng thôi. Rốt cuộc, Rhyme biết rằng
định mệnh sẽ buộc Sales trở nên giống như anh, như hầu hết những bệnh
nhân bị thương nặng khác, dù là ở cột sống hay ở nơi nào: Anh ta rốt cuộc
sẽ tự nhủ, “Chết tiệt. Ta còn cả cuộc đời để sống.” Chẳng hạn như Rhyme
cuối cùng đã chọn cách lờ đi tình trạng của mình hết mức có thể. Anh sống
trên đời là để làm một nhà tội phạm học, hết chuyện. Không rền rĩ, không
quyên góp, không quảng cáo cho dịch vụ công gì cả, cũng chẳng có sự
đúng đắn về chính trị gì ở đây. Nếu phải nhắc tới tình trạng của mình, anh
sẽ dùng các từ như là “tàn phế” hay “liệt”. Có lần anh còn lườm cháy mắt
ai đó đã nhún nhường nhận xét rằng Rhyme là một ví dụ sáng chói của
cộng đồng “tàn mà không phế
“, Rhyme hy vọng cụm từ đó sẽ không bao
giờ được đưa vào từ điển Merriam-Webster.
Nguyên gốc “disabled-able”
Không, Sales đã nhắn gọi Rhyme, không phải để hỏi về cách tiếp cận
với trị liệu, mà vì một chủ đề hoàn toàn khác.