Khi lại ló người ra, chúng tôi lẻn đi quanh phòng cho đến khi chắc rằng
mình không bị theo đuôi.
Khu vực Ai Cập không đông lắm - chỉ có một vài nhóm người già và
một nhóm khách du lịch nước ngoài với hướng dẫn viên đang giải thích về
cái quách bằng tiếng Pháp. “Et voici la momie!”
[10]
Lạ lùng là, dường như không ai chú ý đến thanh kiếm to đùng sau lưng
Carter, thứ này đáng lẽ phải là một vấn đề an ninh đấy chứ (và thú vị hơn
nhiều mấy cái triển lãm kia). Một vài người già quả có nhìn chúng tôi kỳ
kỳ, nhưng tôi ngờ rằng đó là vì chúng tôi mặc những bộ pyjama bằng vải
lanh, người mồ hôi mồ kê, phủ đầy cỏ và lá cây. Mái tóc của tôi chắc chắn
cũng là một cơn ác mộng nữa.
Tôi tìm thấy một căn phòng trống thế là lôi Carter sang một bên. Các hộp
kính đầy nhóc shabti. Một vài ngày trước đây hẳn tôi sẽ không suy nghĩ gì
về chúng. Giờ đây, tôi mải liếc nhìn các bức tượng, vì bất cứ lúc nào chúng
cũng có thể sống lại và cố phang vào đầu tôi.
“Giờ thì thế nào?” tôi hỏi Carter. “Anh có thấy được đền thờ nào
không?”
“Không.” Anh nhíu mày lại như thể đang cố hết sức nhớ lại. “Anh nghĩ
có một cái đền thờ được xây dựng lại ở cuối sảnh… hay là nó ở Bảo tàng
Brooklyn nhỉ? Hay có lẽ là cái ở Munich? Xin lỗi, anh đã đi cùng Cha đến
quá nhiều bảo tàng nên chúng cứ trộn lẫn vào nhau.”
Tôi thở dài bực tức. “Tội nghiệp thằng bé, bị buộc phải đi khắp thế giới,
không được đến trường, và phải ở cùng với Cha trong khi em có được
những hai ngày một năm ở bên ông ấy!”
“Này!” Carter quay người tôi lại với một lực đáng ngạc nhiên. “Em có
một ngôi nhà! Em có bạn bè và một cuộc sống bình thường và không thức
dậy mỗi sáng rồi tự hỏi em đang ở đất nước nào! Em không…”
Cái hộp kính bên cạnh tôi vỡ tan, bắn vụn kính tung tóe ở chân chúng
tôi.
Carter nhìn tôi, hoang mang. “Có phải chúng ta vừa mới…”