tán loạn và mờ nhạt, như thể đang nhìn qua trong tình trạng nhiễu khí quyển
nặng vậy.
Tôi bay thẳng về phía ngọn núi, lúc này gần như là đốm lửa hiểu
không thể cưỡng lại đối với cơ thể bão của tôi. Ngọn núi phát ra nhiệt, áp
suất, và cả sự hỗn loạn – bất cứ thứ gì mà một con quỷ bão bé nhỏ giống
như tôi có thể muốn.
Tôi đi theo chú Amos đến một dải đất nằm ở phía bên kia sườn núi,
nhưng tôi biến lại về hình người hơi sớm. Tôi ngã nhào từ trên trời xuống
và húc Carter ngã xuống đất.
“Ối,” anh ấy rên rỉ.
“Xin lỗi,” tôi nói, mặc dầu tôi tập trung phần lớn vào việc cố không
nôn ra. Dạ dày tôi vẫn có cảm giác như lúc tôi là cơn bão vậy.
Zia và chú Amos đứng kế bên tôi, ló đầu nhìn vào khe nứt giữa hai
tảng sa thạch lớn. Ánh sáng đỏ từ bên trong tràn ra và khiến mặt họ trông
gian ác.
Zia quay về phía cúng tôi. Xem xét từ nét mặt, những gì cô ta đã nhìn
thấy đều không được tốt cho lắm. “Chỉ còn lại cái chóp tháp.”
“Cái gì?” Tôi nhìn xuyên qua khe nứt, và tầm mắt bị mất phương
hướng như lúc bị biến thành một đám mây bão. Toàn bộ ngọn núi bị khoét
rỗng, y như những gì Carter đã miêu tả. Đáy hang ở cách chúng tôi khoảng
sáu trăm mét phía bên dưới. Lửa cháy dữ dội khắp nơi, nhuộm các bức
tường đá trong ánh sáng đỏ như máu. Một kim tự tháp đỏ thẫm khổng lồ
chiếm lấy toàn bộ diện tích cái hang, và ở dưới chân kim tự tháp, vô số quỷ
đi tha thẩn như đám đông trong một buổi biểu diễn nhạc rock đang chờ mở
màn. Ở cao hơn phía trên bọn chúng, ngang với tầm mắt của chúng tôi, hai
sà-lan phép thuật được vận hành bởi các thủy thủ đoàn ma quỷ trôi chầm
chậm, kiểu cách về phía kim tự tháp. Được treo lơ lửng bởi một đống dây
thừng giữa hai con thuyền là mảnh kim tự tháp duy nhất vẫn chưa được lắp
vào – viên đá bằng vàng được đặt trên đỉnh của công trình.
“Chúng biết chúng đã chiến thắng,” Carter đoán. “Chúng đang thể
hiện rõ điều đó.”
“Đúng thế,” chú Amos nói.