Trời về đêm khá lạnh, nhưng sau khi đặt chân lên thuyền tôi đột nhiên
cảm thấy ấm áp hơn, như thể ánh sáng từ ngọn đuốc đang tỏa ra một vầng
sáng bảo vệ bao trùm lấy chúng tôi. Ở giữa con thuyền là một cái lều được
dệt từ chiếu. Từ trên tay của Sadie, con Muffin ngửi ngửi túp lều và kêu gừ
gừ.
“Vào bên trong ngồi đi,” chú Amos gợi ý. “Chuyến đi có thể hơi dằn xóc
một chút đấy.”
“Cháu sẽ đứng, cảm ơn.” Sadie hất đầu về phía người đàn ông nhỏ thó ở
phía sau. “Người lái tàu của chú là ai thế?”
Chú Amos tỏ ra như thể chú đã chẳng nghe thấy câu hỏi. “Bám chắc vào
nhé mọi người!” Chú ấy gật đầu về phía người lái thuyền, và con thuyền lao
về phía trước.
Cảm giác có được thật khó mà miêu tả. Bạn biết được cảm giác nhoi
nhói ở hõm thượng vị khi bạn ở trên một chiếc tàu lượn siêu tốc và nó bắt
đầu rơi tự do xuống chứ gì? Cảm giác này kiểu kiểu như thế, ngoại trừ việc
chúng tôi không rơi xuống, và cảm giác đó chẳng mất đi. Con thuyền di
chuyển với tốc độ kinh ngạc. Ánh sáng của thành phố nhòa đi, rồi bị nuốt
chửng vào màn sương mù dày đặc. Những âm thanh kỳ lạ vang vọng trong
đêm tối: tiếng trượt và tiếng rít, những tiếng hét từ xa xăm, những giọng nói
đang thì thầm thầm bằng những ngôn ngữ mà tôi không thể hiểu.
Cảm giác nhộn nhạo đó biến thành tình trạng buồn nôn. Các âm thanh
trở nên lớn hơn, cho đến khi tôi sắp tự mình hét lên. Rồi đột nhiên con
thuyền chậm dần lại. Những tiếng ồn biến mất, và sương mù tan đi. Ánh
sáng thành phố quay trở lại, sáng hơn lúc nãy.
Hiện lên lù lù phía trên chúng tôi là một cây cầu, cao hơn nhiều so với
bất cứ cây cầu nào ở London. Dạ dày tôi tròng trành chậm dần lại. Ở phía
bên trái, tôi nhìn thấy đường chân trời quen thuộc - toàn nhà Chrysler, toàn
nhà Empire State.
“Không thể nào,” tôi nói. “Đây là New York.”