không?”
“Sáng mai,” chú Amos nói. “Chúng ta sẽ bắt đầu buổi giới thiệu đại ý
cho các cháu và buổi sáng. Khufu, làm ơn dẫn hai người về phòng nào.”
“Agh-uhh!” con khỉ càu nhàu. Nó quay lưng và đi lạch bạch lên cầu
thang. Ngặt nỗi là, chiếc áo thi đấu của đội Lakers không che được hết cái
mông đầy màu sắc của nó.
Chúng tôi chuẩn bị đi theo thì chú Amos bảo, “Carter, cái túi, làm ơn.
Tốt hơn là để chú khóa nó vào trong thư viện.”
Tôi ngần ngừ. Tôi gần như quên chiếc túi trên vai tôi, nhưng nó là tất cả
những gì tôi còn lại từ Cha. Tôi đã thậm chí không có lấy hành lý của chúng
tôi vì nó vẫn bị giữ lại ở Bảo tàng Anh. Thành thật mà nó, tôi thấy ngạc
nhiên khi cảnh sát đã không lấy cả cái túi đồ nghề, nhưng dường như không
ai trong số họ chú ý đến nó.
“Cháu sẽ có lại nó thôi,” chú Amos hứa. “Khi thời điểm chín muồi.”
Chú ấy đã yêu cầu khá tử tế, nhưng có điều gì đó trong mắt chú ấy cho
tôi rằng tôi thật sự không có sự lựa chọn nào khác.
Tôi đưa chiếc túi cho chú. Amos thận trọng cầm lấy nó, như thể nó chưa
đầy chất nổ vậy.
“Gặp lại các cháu vào buổi sáng nhé.” Chú quay người lại và sải bước về
phía cánh cửa bị xích. Cửa tự mở khóa và hé ra vừa đủ để chú Amos đi qua
mà không cho chúng tôi thấy được bất cứ thứ gì bên trong. Rồi những sợi
xích lại tự khóa lại phía sau lưng chú ấy.
Tôi nhìn Sadie, không rõ phải làm gì. Việc hai chúng tôi một mình ở lại
trong Đại Sảnh với bức tượng thần Thoth rùng rợn dường như không phải
là chuyện gì vui vẻ lắm, vì thế chúng tôi đi theo Khufu lên lầu.
Sadie và tôi ở hai phòng kế nhau trên tầng 3, và tôi phải thừa nhận rằng
hai phòng này tuyệt hơn bất cứ nơi nào tôi đã ở trước đây.