“A, Carter,” chú Amos nói. “Chúc mừng Giáng sinh, cậu bé của ta. Đến
đây nào.”
“Cũng đã đến lúc rồi đấy,” Sadie càu nhàu. “Em đã dậy từ thời nảo thời
nào.”
Nhưng con bé nhìn sâu và mắt tôi trong một lát, như thể nó cũng đang
nghĩ về điều giống hệt tôi: Giáng sinh. Chúng tôi đã không cùng nhau trải
qua buổi sáng Giáng sinh kể từ khi Mẹ mất. Tôi tự hỏi liệu Sadie có còn
nhớ cách chúng tôi làm ra đồ trang trú con mắt của Chúa từ cuộn chỉ và que
kem hay không.
Chú Amos rót cho mình một tách cà phê. Áo quần chú giống hệt kiểu đã
mặc ngày hôm qua, và tôi phải thừa nhận rằng chú rất có phong cách. Bộ
vest được cắt may bằng vải len xanh, chú đội một cái mũ phớt đồng bộ, và
mái tóc được kết mới bằng đá da trời màu xanh đậm, một trong số các loại
đá mà người Ai Cập sử dụng làm đồ trang sức. Thậm chí cả mắt kính cũng
tiệp màu. Trong kính tròn nhuộm xanh nhạt. Một cái kèn tê-no được dựng
trên một cái giá kế bên hố lửa, và tôi có thể hoàn toàn hình dung ra cảnh
chú đứng chơi kèn ở bên ngoài này, dạo một bản dạ khúc cho sông Đông.
Còn về phần Sadie, con bé mặc bộ pyjama bằng vải lanh trắng y như tôi,
nhưng bằng cách nào đó nó đã giữ lại được đôi bốt hầm hố của mình. Con
bé chắc là vẫn mang giày khi ngủ. Trông nó khá hài hước với mái tóc
nhuộm sọc đỏ cùng bộ trang phục, nhưng vì tôi cũng chẳng mặc gì khá hơn,
nên tôi hầu như không thể trêu nó được.
“Ừm... chú Amos này?” tôi hỏi. “Chú không có nuôi bất cứ con chim
nào, phải không ạ? Khufu đang ăn cái gì đó có lông màu hồng.”
“Ừm.” Chú Amos nhấp một ngụm cafe. “Xin lỗi vì điều đó đã làm cháu
lo lắng. Khufu rất kén chọn. Nó chỉ ăn thức ăn kết thúc bằng chữ -o. Dorito,
burrito, hồng hạc
[6]
.”
Tôi chớp mắt. “Chú vừa nói...”