286
Chương IV - Bốn Pháp
chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú
xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh
tịnh.
15. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, tinh khiết, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết
như thật: "Ðây là khổ"; biết như thật: "Ðây là khổ tập"; biết
như thật: "Ðây là khổ diệt"; biết như thật: "Ðây là con đường
đưa đến khổ diệt"; biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc";
biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của những lậu hoặc"; biết
như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc"; biết như thật:
"Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ
biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã
giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát".
Vị ấy quán tri: "Sanh đã diệt, Phạm hạnh đã thành, việc cần
làm đã làm, sau đời hiện tại, không có trở lui trạng thái này
nữa".
16. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người vừa
không hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình,
vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ
người. Vị ấy không tự hành khổ mình, không hành khổ
người, trong hiện tại sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy
mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện
hữu ở đời.