nhân. Bất cứ quyết định nào cũng nghiêng về phía Sturges; và cũng có
những lựa chọn tương tự nếu tòa muốn nghiêng về phía Bridgman.
Nhưng dù ai kiểm soát tiềm lực kinh tế, và cho dù quyền kiểm soát được
bảo vệ như thế nào, thì người đó sẽ tìm kiếm lợi thế cho riêng mình bằng
cách hướng tiềm lực ấy vào cách sử dụng đem lại lợi nhuận cao nhất, cho
dù cách sử dụng đó là do bản thân anh ta hay do hàng xóm. Tòa không thể
tác động tới lợi nhuận của bất cứ bên kinh doanh nào, và vì thế, không thể
kiểm soát cách tiềm năng được sử dụng.
Quan sát gây sửng sốt về sự vô dụng của các thẩm phán này được Giáo
sư Ronald Coase của trường Đại học Luật Chicago đưa ra vào năm 1961.
Nó xuất hiện như là một bức màn bí mật được hé mở cho các nhà kinh tế
học, các nhà luật học và học giả nói chung. Nó cũng đánh dấu sự ra đời của
chuyên ngành hàn lâm mới: phân tích kinh tế về luật pháp.
Để tôn vinh Coase, quan sát của ông được đặt tên là Định lý Coase. Nó
áp dụng bất cứ khi nào các bên xung đột có thể thương lượng, để tiến tới
thỏa thuận chung, và để tự tin rằng các điều kiện của họ được thi hành.
Trong những hoàn cảnh này, Định lý Coase nói rằng sự phân phối của
quyền tài sản, hay lựa chọn luật trách nhiệm pháp lý, hay khái quát hơn là
bất cứ cách phân phối quyền lợi nào (một cách sắp xếp bao gồm quyền lợi
của cả hai bên và các luật trách nhiệm pháp lý) không ảnh hưởng tới sự
phân phối cuối cùng của tiềm lực kinh tế. Khi đó, các quyết định của thẩm
phám chẳng có nghĩa lý gì hết.
Tuy vậy, có rất nhiều trường hợp mà trong đó Định lý Coase không áp
dụng được, vì thương lượng hoặc là bất khả kháng hoặc là quá đắt đỏ. Điều
này có thể xảy ra, chẳng hạn, nếu số lượng các bên liên quan trong xung
đột là rất nhiều.
Nếu chỉ có một nông dân liên quan tới vụ việc thì Định lý Coase trả lời
“Không” và “Không chút nào”. Hệt như trường hợp của Sturges và
Bridgman, quyết định của tòa án là khởi đầu của quá trình ra quyết định,
chứ không phải kết thúc. Nếu tòa án phán quyết rằng người nông dân có thể