hưởng tới sự cân bằng giữa chi phí và lợi ích khi lợi ích của cả người tiêu
dùng lẫn nhà sản xuất được tính tới.
Tuy nhiên, nguồn thứ hai của thặng dư tăng – thực tế là người ta ăn và
thích ăn pizza hơn trước – là nguồn lợi xã hội thực và phải được tính là lợi
ích. Nếu chính phủ thay đổi chính sách và khiến giá pizza giảm đi 2 đô-la,
một trong những nhiệm vụ quan trọng trong phân tích chính sách sẽ là ước
tính mức tăng trong thặng dư tiêu dùng từ việc tăng lượng tiêu thụ pizza.
Ma túy cũng như vậy. Vì mục đích của cuộc tranh luận, chúng ta hãy
chấp nhận những con số trong bài viết của ông Dennis: 30 triệu người sử
dụng hiện hành, tiêu tổng số 100 tỉ đô-la hàng năm, và thêm 7,5 triệu người
sử dụng sau hợp pháp hóa khiến giá cả giảm xuống còn 1/8 mức hiện tại.
Một phép tính số học nhỏ cũng cho thấy rằng những người sử dụng mới sẽ
tiêu tổng cộng là khoảng 3 tỉ đô-la vào những loại ma túy mới với giá thấp.
Cũng sẽ là hợp lý để suy luận từ những con số này rằng tổng giá trị của các
loại thuốc này – lượng tiền những người sử dụng mới sẵn sàng trả nếu cần
– là khoảng 10 tỉ đô-la.
Vì vậy, hợp pháp hóa sẽ đem lại lợi ích thực cho người sử dụng mới
khoảng 7 tỉ đô-la mỗi năm. Thậm chí con số ước tính đó không bao gồm lợi
ích cho người sử dụng hiện hành, những người chắc chắn sẽ tăng mức tiêu
thụ của chính mình.
Thay vì 7 tỉ đô-la lợi ích mà những con số của chính ông hàm ý, ông
Dennis tính lượng ma túy được sử dụng nhiều hơn là 25 tỉ đô-la chi phí. Tại
sao là 25 tỉ đô-la? Đó là ước tính của ông về chi phí y tế tư nhân và thu
nhập cá nhân mất đi do người sử dụng mới tiêu thụ ma túy. (Ít nhất giờ đây
việc ông Dennis bắt đầu quan tâm tới thu nhập cá nhân bị mất mát là điều
ấm lòng. Thời thu nhập cá nhân còn bị đánh thuế, điều này dường như
chẳng làm ông mảy may đoái hoài.)
Trong bất cứ trường hợp nào, 7 tỉ đô-la gia tăng trong thặng dư tiêu dùng
đã là tổng chi phí y tế và thất thu nhập. Bất cứ thiệt hại nào như thế lẽ ra sẽ
được phản ánh trong sự sẵn sàng của người ta khi mua thuốc và cũng sẽ