hàng với người bán, và những người bán ma túy, trộm và những kẻ nghiện
ngang hàng với cảnh sát, người buôn chứng khoán, các ông chủ tại Chicago
White Fox, và các vị thánh.
Nếu nhớ được rằng, mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng và quan trọng
như nhau. Lẽ ra ông Dennis đã phải coi quãng thời gian tiếp xúc với tù
nhân như một chi phí và tận dụng việc phỏng vấn những người tự nguyện
như là một lợi ích. Ông ấy có lẽ đã nhận ra rằng việc thay đổi doanh thu
thông qua thuế hoặc tù nhân sẽ không tạo ra hoặc làm tiêu tan sự giàu có;
nó chỉ chuyển đổi sự giàu có giữa các cá nhân và tất cả những người mà ưu
tiên của họ đều quan trọng.
Có thể, ông Dennis không chấp nhận hoàn toàn học thuyết triết học hoặc
nguyên tắc chính trị về việc đối xử công bằng với mọi cá nhân. Không nhà
kinh tế học nào phủ nhận quyền này của ông và rất nhiều các nhà kinh tế
học sẽ thông cảm với ông về quan điểm đó. Tuy nhiên, nếu đó là quan điểm
của Dennis, nó cho thấy ông ấy đánh giá các chính sách về một số vấn đề
cao hơn một nền tảng về chi phí-lợi nhuận. Hơn thế nữa, phận sự của
Dennis là phải nói cho chúng tôi về nền tảng của sự lựa chọn đó là gì. Lập
ra một danh sát những thứ Dennis sẵn sàng cân nhắc về chi phí, và một
danh sách khác về những thứ mà ông sẵn sàng cân nhắn về lợi nhuận, sẽ
không tạo hiệu ứng xấu đối với độc giả muốn biết liệu định kiến triết học
của tác giả có phù hợp với chính bản thân anh ta không. Bất kỳ nhà phân
tích chính sách nào cũng nên công bố trước về tiêu chuẩn đạo đức của
Dennis, và sau đó đưa ra đánh giá phù hợp với tiêu chuẩn đó.
Rất nhiều nhà kinh tế, dành nhiều thời gian để áp dụng tiêu chuẩn chi
phí-lợi nhuận như là kim chỉ nam cho chính sách. Đôi khi, việc hướng đạo
của chiếc kiêm chỉ nam này gây khó khăn cho chúng tôi. Hãy thử nghiên
cứu một chính sách có thể làm Rockefeller kiếm được một khoản lời 1.000
đô-la từ chi phí 900 đô-la từ một người khó khăn, tiêu chuẩn chi phí.
Tuy nhiên, khi một nhà kinh tế học phải đối mặt với việc hoạch định
chính sách. Một trong những bản năng đầu tiên của người này chính là