thần lạc quan mới rằng sẽ có những công việc tốt hơn cho những ai dành
thời gian đi săn lùng chúng.
Trong nền kinh tế toàn cầu, nạn thất nghiệp có thể là dấu hiệu cho thấy
tình hình đang tồi đi hay tình hình đang khởi sắc. Điều tương tự cũng đúng
ở mức độ cá nhân. Trong khi Peter chọn làm việc 80 giờ một tuần để giàu
lên thì Paul lại chọn làm việc 3 giờ một tuần và sống thoải mái nhờ vào
những cách khác. Ai có thể khẳng định lựa chọn nào khôn ngoan hơn? Tôi
không thể tìm thấy gì trong kinh tế học, đạo đức hay những linh cảm cá
nhân nói rằng chúng ta nên ủng hộ bên này hơn bên kia. Thất nghiệp, hay
công ăn việc làm ở mức thấp, có thể là lựa chọn tự nguyện và là một lựa
chọn tốt.
Sẽ là dễ dàng cho những người quan sát sai lầm khi tự thuyết phục bản
thân rằng Peter phải chắc hẳn phải khôn ngoan hơn hay khá giả hơn Paul,
bởi thu nhập của Peter nhãn tiền hơn sự thư giãn của Paul. Một nhà quan
sát ngây thơ có thể tranh cãi rằng sự công bằng đòi hỏi chúng ta phải giải
quyết sự khác biệt trong thu nhập bằng cách chuyển một phần thu nhập của
Peter cho Paul. Nhưng cũng chính điều đó sẽ yêu cầu chúng ta giải quyết
sự khác biệt trong “thư giãn” bằng cách chuyển một phần “thư giãn” của
Paul cho Peter. Nếu sự công bằng ra lệnh rằng phải đánh thuế Peter để trả
cho Paul, nó cũng ra lệnh rằng phải cưỡng bách Paul cắt cỏ cho sân nhà
Peter hay sao?
Vì họ quên rằng thành quả của sức lao động chứ không phải bản thân
sức lao động mới là cái người ta mong muốn. Các phóng viên dường như
muôn đời chịu cảnh mắc sai lầm nực cười khi luôn gợi ý rằng các thảm họa
của thiên nhiên có thể là những cơ hội phát triển đáng được đón nhận bởi
chúng buộc người ta làm việc. Khi bão Andrew tàn phá Nam Florida vào
năm 1992, gợi ý này đã rất có tiếng vang. Theo các phát thanh viên, sự phá
hủy hàng loạt ẩn chứa những lợi ích bí ẩn tiếp nối bởi những hoạt động sôi
sục để khôi phục hiện trạng ban đầu. Tôi phân vân liệu họ có áp dụng quan
điểm này cho cuộc sống của chính họ hay không, chẳng hạn như, bằng cách