giản. Khi giá trị của hàng hóa sẵn có giảm đi 20 tỷ đô-la trong một đất nước
với 250 triệu người, một công dân trung bình sẽ phải tiêu ít hơn dự định 80
đô-la.
Nhìn chung, nếu cung hàng hóa giảm, giá cả của nó sẽ tăng cho tới khi
người tiêu dùng không có nhu cầu nhiều hơn mức sẵn có của hàng hóa.
Trong trường hợp này, “hàng hóa” là mức tiêu dùng hiện hành và giá cả là
tỷ lệ lãi suất. Khi tỷ lệ lãi suất tăng, những người thường xuyên tiết kiệm sẽ
chọn việc tiết kiệm nhiều hơn và những người thường xuyên đi vay tiền
vay ít đi. Cả hai nhóm sẽ giảm mức tiêu dùng tương ứng. Tỷ lệ lãi suất tiếp
tục tăng cho tới khi một người dân quyết định tiêu ít đi 80 đô-la trong năm
so với kế hoạch ban đầu của anh ta.
Khi muốn biết một hệ thống vũ khí mới ảnh hưởng tới tỷ lệ lãi suất như
thế nào, tôi bắt đầu từ việc quan sát rằng tôi sống trong một gia đình 3
thành viên, và rằng những hộ gia đình như của tôi sẽ tiêu dùng, tính trung
bình, 240 đô-la ít hơn trong năm nay so với kế hoạch ban đầu của chúng
tôi. Tôi tự hỏi lãi suất sẽ phải tăng cao bao nhiêu để tác động lại điều đó, và
tôi đưa nó vào ngay vấn đề của cá nhân gia đình tôi: Tỷ lệ lãi suất sẽ phải
cao bao nhiêu để gia đình tôi cắt giảm chi tiêu đi 240 đô-la? Nếu tôi trả lời
trung thực, và nếu gia đình tôi thực sự là một gia đình điển hình, thì tôi có
thể sẽ dự đoán khá chính xác.
Một vụ mùa không thành công trị giá 20 tỷ đô-la hay một thiên tai hủy
diệt một lượng của cải vật chất tương đương với 20 tỷ đô-la sẽ tạo ra những
phân tích và những câu trả lời như nhau.
Đó thực sự là tất cả những gì cần biết để hiểu về tỷ lệ lãi suất. Tỷ lệ lãi
suất phải là điều gì đó cần thiết để thuyết phục một gia đình trung bình tiêu
thụ một lượng hàng hóa trung bình có sẵn. Nếu cung hàng hóa giảm, như
khi chính phủ lãng phí nguồn lực, tỷ lệ lãi suất phải tăng lên. Nếu cung
hàng hóa tăng, như khi có một vụ mùa bội thu khác thường, tỷ lệ lãi suất sẽ
phải giảm.