mặt kinh tế cũng sẽ không nhận được phiếu nào để cạnh tranh với một lựa
chọn khác hợp lý hơn.
Một cuộc tranh cãi không hiệu quả luôn luôn không tốt song không có
nghĩa là một lý luận hiệu quả luôn luôn tốt. Nhưng vì hiệu quả là sự thay
thế duy nhất cho sự thiếu hiệu quả, do đó các nhà kinh tế học có xu hướng
ưu ái nó hơn.
Có hai điều trái ngược rõ rệt trong cách lý luận này, trong đó một điều
hoàn toàn chẳng liên quan gì đến vấn đề và điều còn lại là sự thật. Thứ
nhất, một vị quan tòa với trình độ có hạn không thể đoán định được một
người lao động có thể tự nguyện chi trả bao nhiêu vì công việc của anh ta,
càng không thể đoán được những người hoạt động vì Quyền bảo tồn tài
nguyên có thể chấp nhận bao nhiêu để bảo tồn một giếng dầu ở nguyên
trạng thái tự nhiên của nó. Điều đó có phần đúng nhưng lại hoàn toàn
chẳng liên quan gì. Các vị quan tòa, đồng thời là người trần mắt thịt, đôi
khi cũng bị lên án do đã chệch hướng mục tiêu của họ. Điều đó không giúp
họ giảm nhẹ trách nhiệm phải lựa chọn giữa các mục đích một cách thích
đáng. Câu hỏi không phải là “Liệu các chính sách có nên luôn có hiệu quả
không?”, mà là “Nói chung, chúng ta có nên cố gắng nghĩ ra các chính sách
có hiệu quả, nỗ lực hết sức có thể với những hiểu biết có hạn mà chúng ta
nắm trong tay?”
Đối với một ứng cử viên thì việc bị thua trong một cuộc bầu cử nào đó
không nhất thiết phải bị coi là sai lầm nghiêm trọng, ngay cả khi 100%
phiếu bầu thuộc về một lựa chọn khác – người thậm chí còn không nằm
trong cuộc đua chính. Trong ví dụ của tôi, vị quan tòa có thể cho phép việc
khoan thăm dò hoặc ngăn cấm nó. Việc cho phép thăm dò và đồng thời ra
phán quyết yêu cầu một mớ bòng bong chi phí phụ có thể không phải là
một lựa chọn. Nên chăng cần loại bỏ vị trí bên phản đối thăm dò chỉ bởi nó
lép vế hơn một kế hoạch thậm chí vẫn chưa được xem xét? Và nếu việc này
loại bỏ được lập luận chống lại sự thiếu hiệu quả, thì ta còn lại gì cho lập
luận về sự hiệu quả?