tình nguyện thì những người đóng thuế cũng vẫn phải đóng góp 30 nghìn
đô-la; tổng số vẫn không có gì thay đổi so với trước.
Cách tốt nhất để nhìn nhận sự vô lý của luận điệu cho rằng chế độ quân
dịch ít tốn kém hơn đó là thử tưởng tượng chính cậu thanh niên đó bị đánh
thuế 30 nghìn đô-la rồi sau đó trao lại cho anh ta với danh nghĩa lương
bổng nhờ gia nhập quân đội. Chắc chắn đề xuất này cũng không khác gì
chế độ quân dịch dù hiểu theo cách nào đi nữa. Nếu các tính toán chỉ cho
bạn thấy khoản tiền lương trả cho binh lính luôn tốn kém hơn việc gọi họ đi
quân dịch, thì ví dụ trên sẽ cho bạn thấy bạn cần có một hệ thống sổ sách
kế toán mới.
Giờ hãy xoay qua một tranh cãi thường gặp khác: sự gia tăng chi tiêu cho
nghị viện. Sự gia tăng này tạo ra hai tác động. Thứ nhất, nó phân phối lại
đầu vào bằng cách khiến cho các nghị sĩ trở nên giàu có hơn thông qua
những khoản chi của những người đóng thuế. Thứ hai, nó thu hút được tầng
lớp ưu tú hơn trong số các ứng viên trong tương lai. Thông thường quan
điểm phi kinh tế học cho rằng tác động thứ nhất là bất lợi còn tác động thứ
hai có lợi. Nhưng nếu chúng ta nghiêm túc nhìn nhận về mặt hiệu quả, hiệu
ứng thứ nhất không gây ra tác động, còn hiệu ứng thứ hai có thể xem như
có hại.
Có thể sẽ xuất hiện một người thợ cơ khí khác thế chỗ người thợ cũ,
nhưng khi đó xã hội lại mất đi bất cứ một người làm nghề nào khác mà
người thợ cơ khí mới này đã có thể trở thành.
Thực vậy, tác động thứ hai rất khó đoán định được. Mức lương cao hơn
chỉ bảo đảm rằng các cuộc tranh cử trong tương lai sẽ càng trở nên khốc
liệt hơn. Cái giá phải trả cho việc tham gia vào các chiến dịch dai dẳng có
thể làm tan biến tất cả lợi ích của mức lương cao hơn. Thực tế, điều này có
thể khiến cho việc thu hút các ứng viên có phẩm chất tốt trở nên vừa dễ
dàng hơn lại vừa khó khăn hơn. Nhưng để tiện lập luận, tôi xin giả thiết
rằng mức lương cao hơn thực sự có sức hấp dẫn mạnh đối với các ứng viên
tốt.