Tất nhiên có rất nhiều nguyên nhân khiến chúng ta không muốn tăng
số lượng tù nhân. Không phải tất cả mọi người đều thích việc nhiều người
Mỹ, đặc biệt là người Mỹ da đen, sống đằng sau những song sắt nhà tù.
Cũng không có nhà tù nào bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới phạm tội,
vốn rất đa dạng và phức tạp. Cuối cùng, nhà tù không phải là một giải pháp
tiết kiệm: vì mỗi năm chính phủ Mỹ tốn khoảng 25.000 đô-la để giam giữ
tù nhân. Nhưng nếu mục tiêu ở đây là lý giải tỷ lệ tội phạm giảm vào những
năm 1990, thì việc giam giữ là một trong những yếu tố chính. Nó góp phần
làm giảm khoảng một phần ba tỷ lệ tội phạm.
Một nguyên nhân khác làm giảm tỷ lệ tội phạm thường gắn liền với
việc tống giam là: tăng áp dụng án tử hình. Giữa những năm 1980 và 1990,
số tử tù ở Mỹ tăng gấp bốn lần khiến nhiều người kết luận rằng trong bối
cảnh tranh cãi kéo dài nhiều thập kỷ, án tử hình đã góp phần làm giảm tỷ lệ
tội phạm. Có hai nguyên nhân quan trọng khiến án tử hình chưa phải là
nguyên nhân thật sự của việc giảm tỷ lệ tội phạm.
Một là, hiếm khi hình phạt tử hình được tiến hành ở Mỹ và thời gian
trì hoãn thi hành dài khiến tội phạm không bị nhụt chí vì sự đe dọa của án
tử hình. Mặc dù số lượng án tử hình tăng gấp bốn lần chỉ trong một thập kỷ
nhưng vẫn còn 478 tử tù trên toàn nước Mỹ trong những năm 1990. Bất cứ
người cha, người mẹ nào từng nói với đứa con hư đốn của mình là “giờ ta
sẽ đếm từ 1 đến 10 và sẽ phạt con thật đấy” đều hiểu sự khác nhau giữa
việc răn đe và dọa nạt suông. Ví dụ, bang New York không áp dụng hình
phạt tử hình đối với tội phạm phi tổ chức kể từ khi áp dụng luật tử hình
năm 1995. Thậm chí trong số các tử tù, tỷ lệ tử hình hàng năm chỉ là 2%, so
với 7% số thành viên của các băng đảng xã hội đen hàng năm phải đối mặt
với cái chết. Nếu như cuộc sống tử tù an toàn hơn cuộc sống lang thang
nguy hiểm trên đường phố thì thật khó để tin rằng nỗi sợ bị tử hình là
nguyên nhân chính làm giảm tỷ lệ tội phạm. Giống như hình phạt 3 đô-la
áp dụng đối với cha mẹ đến đón con muộn ở trường mẫu giáo Israel, động