Trong một năm đầu sau Luật Roe vs. Wade, khoảng 750.000 phụ nữ
đã phá thai ở Mỹ (cứ bốn trẻ em được sinh ra thì có một ca nạo hút thai).
Trước năm 1980, số phụ nữ phá thai là 1,6 triệu (cứ 2,25 đứa trẻ được sinh
ra thì có một ca bị nạo hút). Ở một đất nước có 225 triệu dân, 1,6 triệu ca
phá thai mỗi năm − đồng nghĩa với việc cứ 140 người Mỹ thì có một người
phá thai. Trong những năm đầu sau cái chết của Nicolae Ceausescu, quyền
phá thai được phục hồi ở Rumani, chỉ có 1/22 trẻ Rumani bị nạo hút.
Trước thời kỳ có Luật Roe vs. Wade, chỉ con gái của những gia đình
trung và thượng lưu mới có thể sắp xếp và mua được một ca phá thai an
toàn và bất hợp pháp . Nhưng thay vì phải tiến hành bất hợp pháp như trước
đây mất 500 đô-la thì bây giờ bất cứ phụ nữ nào cũng có thể dễ dàng được
phép phá thai, và chỉ tốn chưa tới 100 đô-la.
Những phụ nữ nào được hưởng lợi từ Luật Roe vs. Wade? Thường là
những phụ nữ chưa kết hôn hoặc chưa đến tuổi vị thành niên hoặc rất
nghèo, và đôi khi có cả ba lý do trên. Tương lai của những đứa trẻ (nếu
được sinh ra) sẽ ra sao? Một nghiên cứu chỉ ra rằng những đứa trẻ không
được sinh ra vào những năm đầu khi phá thai được hợp pháp hóa, sẽ có
nguy cơ sống trong đói nghèo nhiều hơn 50% so với mức trung bình; và
khoảng 60% những đứa trẻ đó lớn lên chỉ có mẹ hoặc cha. Thời thơ ấu
nghèo khó và gia đình chỉ có bố hoặc mẹ − là hai yếu tố dự báo rõ nhất về
việc đứa trẻ sẽ trở thành tội phạm trong tương lai. Lớn lên trong một gia
đình chỉ có cha hoặc mẹ sẽ nhân đôi khuynh hướng phạm tội của đứa trẻ
trong tương lai. Trường hợp người mẹ còn quá trẻ cũng vậy. Một nghiên
cứu khác chỉ ra rằng người mẹ thiếu giáo dục là yếu tố đóng vai trò then
chốt trong việc đẩy người con phạm tội.
Nói cách khác, các yếu tố khiến hàng triệu phụ nữ Mỹ phá thai dường
như cũng cảnh báo rằng những đứa trẻ ấy nếu được sinh ra sẽ có một cuộc
sống không hạnh phúc và dễ đi vào con đường tội lỗi.