đến các ngành sản xuất thực, ngân sách của chính quyền địa phương cũng như
GDP của Trung Quốc.
NỢ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Trong suốt thời gian dài, chính quyền địa phương phải đảm trách hầu hết
lượng hàng hóa công cần cung cấp nhưng nguồn thu lại bị hạn chế do thể chế
thuế tài chính tồn tại từ thập niên trước.
Hộp 1.5: Cải cách thể chế thuế thu của Trung Quốc năm 1994
Trong giai đoạn từ sau năm 1978, thu chi tài chính của chính quyền
Trung ương Trung Quốc đối diện với nhiều khó khăn. Trung ương đã phải
liên tục đàm phán, mặc cả với địa phương, yêu cầu các tỉnh giàu có phải
nộp mức thu nhập lớn hơn nữa. Do chính quyền Trung ương không có cơ
quan trưng thu thuế của mình nên chỉ có thể dựa vào chính quyền địa
phương giao nộp thuế và lợi nhuận. Còn chính quyền địa phương thì tìm
nhiều cách để né tránh nghĩa vụ này. Họ chuyển thu nhập thuế thu chuyển
từ trong ngân sách (
预 算 内)ra ngoài ngân sách (预 算 外),như vậy có thể
tránh được việc phải phân chia cho Trung ương, còn thông qua việc ưu đãi
thuế và miến thuế để “làm giàu cho doanh nghiệp”. Vì lợi ích của mình, các
địa phương dùng nhiều biện pháp có hiệu quả kinh tế thấp như các chính
sách bảo hộ địa phương nhằm ngăn trở hàng hóa lưu chuyển liên vùng, các
chi nhánh của ngân hàng nhà nước tại các địa phương bị ra lệnh phải cung
cấp tín dụng cho doanh nghiệp địa phương, hay tình trạng trùng lặp đầu tư
tràn lan v.v… Để giải quyết những vấn đề do thể chế khoán tài chính gây ra,
đầu những năm 1990, chính quyền Trung ương Trung Quốc đã tìm cách tái
tập quyền hóa thể chế thuế thu, nhưng chính quyền địa phương đã thành
công trong việc chống lại những thử nghiệm này. Cho đến năm 1993, chính
phủ Trung Quốc mới ban hành thành công một hệ thống phân phối thuế
mới, được áp dụng từ năm 1994, đồng thời thành lập Cục Thuế vụ Quốc gia
để trưng thu nguồn thuế của nhà nước, các chi cục thuế địa phương thì phụ
trách thu nguồn thuế địa phương. Là một dạng khích lệ nhằm “thuyết phục”
chính quyền địa phương thỏa hiệp, phương thức hoàn thuế của Trung ương