sạch của Bồ Tát, nơi pháp tổng trì chẳng lạc mất tịch niệm và tịch
huệ, Bồ Tát này gọi là chuyên tu thiền quán Tam Ma Bát Đề.
3. Nếu những Bồ Tát chuyên diệt các huyễn, chẳng cần tác dụng mà
tự dứt phiền não. Khi phiền não dứt sạch, liền chứng thật tướng, Bồ
Tát này gọi là chuyên tu thiền quán Thiền Na.
4. Nếu những Bồ Tát trước tu cực tịnh dùng huệ tâm của tịnh để
chiếu soi kẻ huyn (vô minh), liền ở trong đó khởi hạnh Bồ Tát. Bồ Tát
này gọi là trước tu thiền quán Sa Ma Tha, sau tu thiền quán Tam Ma
Bát Đề.
5. Nếu những Bồ Tát tu theo tịnh huệ, chứng được tánh cực tịnh, liền
dứt phiền não, lìa hẳn sanh tử, Bồ Tát này gọi là trước tu thiền quán
Sa Ma Tha, sau tu thiền quán Thiền Na.
6. Nếu những Bồ Tát tu theo huệ tịch tịnh, lại hiện sức huyn hoá biến
hiện đủ thứ thân tướng để độ chúng sanh, sau mới dứt phiền não mà
nhập tịch diệt, Bồ Tát này gọi là trước tu Sa Ma Tha, giữa tu Tam Ma
Bát Đề, sau tu Thiền Na.
7. Nếu những Bồ Tát dùng sức cực tịnh, dứt phiền não rồi sau mới
hành diệu hạnh trong sạch của Bồ Tát để độ chúng sanh, Bồ Tát này
gọi là trước tu Sa Ma Tha, giữa tu Thiền Na, sau tu Tam Ma Bát Đề.
8. Nếu những Bồ Tát dùng sức cực tịnh, tâm dứt phiền não rồi lại độ
chúng sanh, kiến lập thế giới, Bồ Tát này gọi là trước Sa Ma Tha,
sau đồng thi tu hai thiền quán Tam Ma Bát Đề và Thiền Na.
9. Nếu những Bồ Tát dùng sức cực tịnh để sanh khởi biến hoá, sau
mới dứt phiền não, Bồ Tát này gọi là trước đồng thi tu hai thiền quán
Sa Ma Tha và Tam Ma Bát Đề, sau tu Thiền Na.
10. Nếu những Bồ Tát dùng sức cực tịnh để đưa đến tịch diệt, sau lại
khởi tác dụng biến hoá thế giới, Bồ Tát này gọi là đồng thờ i tu hai
thiền quán Sa Ma Tha và Thiền Na, sau tu Tam Ma Bát Đề.
11. Nếu những Bồ Tát dùng sức biến hoá tùy thuận đủ thứ cho đến
cực tịnh, Bồ Tát này gọi là trước tu Tam Ma Bát Đề, sau tu Sa Ma
Tha.