thiết yếu của chiến lược phòng thủ tiền phương của Mỹ ở Đông Bắc Á
nên bất kỳ sự cắt giảm lực lượng nào của nước này cần phải được xem
xét trong mối tương quan lực lượng không chỉ ở Bán đảo Triều Tiên
mà còn ở khu vực Đông Bắc Á rộng hơn. Đặc biệt, Hội đồng Tham
mưu Liên quân lập luận rằng cắt giảm quy mô quân đội Hàn Quốc sẽ
làm gia tăng rủi ro quân sự trên toàn khu vực, hạ thấp ảnh hưởng của
Mỹ ở châu Á, hạ thấp khả năng Mỹ duy trì được cuộc xung đột vũ
trang ở Bán đảo Triều Tiên ở mức chiến tranh phi hạt nhân, buộc Mỹ
phải đảm nhiệm một vai trò to lớn hơn trong trách nhiệm gìn giữ an
ninh toàn cục với việc nâng cao năng lực của quân đội nước này, và
làm phức tạp thêm công tác hậu cần quân đội khi phải giảm đáng kể
thời gian cho phép để tập hợp và đưa lực lượng Mỹ từ bên ngoài Bán
đảo Triều Tiên vào Hàn Quốc khi chiến tranh xảy ra. Theo quan điểm
của Hội đồng, “không thể khẳng định quá chắc chắn rằng quy mô lực
lượng hiện tại của Mỹ/Hàn ở Hàn Quốc đã đạt mức tối thiểu để bảo
đảm an ninh lâu dài ở Đông Bắc Á.”
Ngược lại, trong một báo cáo tháng 9 năm 1962, tổ chức CIA của
Mỹ chỉ đưa ra một đánh giá chung chung. Trong khi đồng tình rằng
mối đe dọa lan truyền chủ nghĩa cộng sản đối với Hàn Quốc có thể đã
chuyển thành hình thức chiến tranh chính trị và lật đổ chính trị hơn là
xâm lược quân sự, CIA cũng cảnh báo về nguy cơ bất ổn chính trị nếu
các lực lượng vũ trang Hàn Quốc bị cắt giảm quá nhiều. Bản báo cáo
khẳng định: “Chừng nào các cường quốc chủ nghĩa cộng sản còn tin
Mỹ sẽ bảo vệ Hàn Quốc, gần như chắc chắn rằng họ sẽ không tổ chức
một cuộc xâm lược quân sự công khai. Vì vậy, việc cắt giảm các lực
lượng vũ trang Hàn Quốc lên đến một phần ba mức hiện tại có thể sẽ
không gia tăng nguy cơ bị phương Bắc xâm lược. Tuy nhiên điều đó
lại có thể gây nên căng thẳng chính trị đáng kể trong nước, điều có lẽ
đủ nguy hiểm để gây lo ngại cho bất cứ chính quyền nào sử dụng tới
biện pháp này.”