trị vì họ e sợ các phản ứng dữ dội mang tính dân tộc và họ cũng cần sự
hợp tác của Park để đạt được những mục tiêu của mình. Khi Park đồng
ý về cơ bản việc lập lại chính quyền dân sự vào giữa năm 1963, Hoa
Kỳ đã rất sẵn sàng để Park chuẩn bị các cuộc bầu cử mặc dù việc này
sẽ dẫn đến những o ép chính trị. Ngược lại, khi sự thống nhất nền tảng
giữa hai đồng minh bị xem là vi phạm, như khi KCIA phá vỡ các
nguyên tắc thị trường để thành lập KIDC từ khối tiền “đóng băng”
trong một biện pháp khẩn cấp giữa năm 1962, hoặc khi Park tuyên bố
kéo dài chính quyền quân sự vào đầu năm 1963, Hoa Kỳ đã công khai
phản đối giới cầm quyền Hàn Quốc và đòi hỏi sự tuân thủ bằng cách
đe dọa rút viện trợ.
Thứ ba, quyền lực và sự hiện diện áp đảo của Mỹ có tác dụng thay
đổi chương trình nghị sự và chiến lược của Hàn Quốc khi xác định
những giới hạn cho phép các lực lượng trong nước được và không
được làm những gì. Trong lúc lên kế hoạch cho cuộc đảo chính, Park
đã hỏi Yi Dong-won, một nhà khoa học chính trị được đào tạo ở
Oxford rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng như thế nào. Yi trả lời chắc chắn,
“Nước Mỹ phải ủng hộ nó miễn là ông tuyên bố chống chủ nghĩa cộng
sản giống như mục đích của nước họ.” Park rõ ràng đã nghe theo lời
khuyên này, tuyên bố về chủ nghĩa chống cộng, tuân thủ Hiến chương
Liên Hợp Quốc, tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối tất cả các hiệp định,
thỏa ước quốc tế chính là hai điều đầu tiên trong bản tuyên ngôn cách
mạng sáu điều vào ngày đảo chính. Hai điểm này được đưa vào không
chỉ để đảm bảo sự ủng hộ của nhóm bảo thủ Hàn Quốc mà còn để
ngăn ngừa sự phản đối của Mỹ. Mặc cho các xu hướng dân tộc và sự
thiếu niềm tin vào nước Mỹ đã ăn sâu ở Park, ông vẫn không thể xem
xét sử dụng chính sách trung dung làm một lựa chọn khác cho mình.
Cũng trong tinh thần tránh xung đột với Mỹ và thỏa mãn các lợi ích
thiết yếu của nước này, Park đã mời hai giáo sư luật người Mỹ về giúp
chính quyền quân sự soạn thảo bản hiến pháp mới năm 1962 nhằm
“giải tỏa những quan ngại của người Mỹ.” Cả các quan chức Mỹ đều