động “tranh đấu cho ý thức hệ” và “nhà nước quân đội” chuyên chế
mà chúng tôi được thấy trong các lý thuyết hiện thời về chính trị hiện
đại hóa của Hàn Quốc dường như là những sản phẩm từ sự cầm quyền
chính trị của Park hơn là một tập hợp cơ cấu thúc đẩy hay hạn chế ông
trong vai trò người đổi mới ở phần lớn thời gian trong kỷ nguyên phát
triển này. Các chương trong cuốn sách thúc đẩy chúng tôi xem xét
những nhân tố này như đang tồn tại trong mối tương quan cùng phát
triển, không ngừng tái định hướng lẫn nhau ở vai trò, đặc điểm và
chiến lược chính trị thông qua những tác động và những phản hồi của
chúng.
Thứ ba, như là một hệ quả từ quan điểm cách mạng của chúng tôi,
các chương sách cho thấy những ý định dường như phức tạp hơn, các
lựa chọn có vẻ đa dạng hơn, và các kết quả ít chắc chắn hơn so với
những gì đã được bàn luận bởi các lý thuyết gia khác. Nhiều quyết
định của Park ở những thời khắc quan trọng trong lộ trình hiện đại hóa
Hàn Quốc có lẽ đã rất khác khi biết được những chi phí chắc chắn và
các lợi ích bất định. Ông không hề ra quyết định một cách thiếu suy
xét. Ngược lại, Park luôn biết những chi phí chính trị, các khó khăn
kinh tế và rủi ro chính sách ngoại giao, tuy nhiên ông cũng đi đến
cùng với nhiều quyết định nhân danh pu-kuk kang-byeong và dẫn đến
nhiều kết quả khác biệt. Người đổi mới [Park Chung Hee] đã đưa Hàn
Quốc vào con đường siêu tăng trưởng vào năm 1965 và giữ đất nước
trên con đường này trong suốt những cuộc khủng hoảng kinh tế 1969,
1972 và 1974 bằng cách kết hợp những liệu pháp sốc và các gói cứu
trợ. Tuy nhiên, trong năm cuối cầm quyền, Park lại nhận ra cỗ máy
tăng trưởng của ông đang trở nên tê liệt dưới sức nặng của các xung
đột nội bộ. Ông đã giải quyết ổn thỏa những cuộc khủng hoảng chính
trị năm 1965, 1969, ĩ972 và 1975 bằng cách kết hợp những lời đe dọa
và sự nhân nhượng, tuy nhiên vào năm 1979, Park dường như đã trở
thành một con người khác, ông không còn kết hợp cà rốt với cây
gậy