sự và dân sự chuyên nghiệp nhưng vẫn mang tính kế thừa của Hàn
Quốc (Chương 6 và 7) và cơ chế hoạch định chính sách với những đặc
trưng của cả “thể chế hóa và cá nhân hóa”, theo Chương 18 của Paul
D. Hutcheroft. Nói cách khác, để giải thích như thế nào và vì sao Hàn
Quốc lại thay đổi rõ rệt lộ trình hiện đại hóa sau năm 1961, chúng tôi
phải vượt ra ngoài khái niệm của Linz về các chính quyền chuyên chế
và phân tích những dàn xếp thể chế nội bộ khác biệt theo những cách
phi nhị nguyên.
Nhà nước phát triển
Trong Chương 3 của Kim Hyung-a, các lý thuyết về nhà nước phát
triển đã giải thích sự tăng trưởng siêu tốc của Hàn Quốc “chủ yếu dựa
trên việc áp dụng mô hình nhà nước ‘Weber’ chuyên nghiệp với tinh
thần ‘duy lý theo kế hoạch’... [nhưng đây chỉ là] chuyện hoang
đường.” Nhưng nhiều tác giả của chúng tôi lập luận, các lý thuyết về
nhà nước phát triển có năm vấn đề sai lầm.
Thứ nhất, theo đánh giá của các thuyết này về các quy trình hoạch
định chính sách của Hàn Quốc về cơ bản là “kỹ trị”, các thuyết nhà
nước phát triển tập trung phân tích các quan chức nhà nước hơn là
người lãnh đạo chính trị của các quan chức này - Park Chung Hee, để
lý giải những ưu tiên, mục tiêu và chiến lược chính sách. Những thiếu
thốn dữ liệu lịch sử được lưu trữ chắc chắn là một lý do dẫn đến sự
quên lãng vai trò chính trị của Park, nhưng vấn đề này không vì vậy
làm mất đi ý nghĩa phê bình của chúng tôi. Hệ thống cai trị chính trị
đảm bảo cho siêu tăng trưởng hoàn toàn mang tính quan liêu, với
những cận vệ an ninh và các nhà kỹ trị kinh tế thống trị trong các đảng
phái chính trị và nhóm lợi ích có ý thức hệ nghèo nàn và được tổ chức
yếu kém, tuy nhiên người chèo lái nó - Park Chung Hee - lại nắm giữ
những quyền lực tự chủ không hề bị kiểm soát và không có đối trọng.
Theo dẫn dắt của Kim Hyung-a, Kim Byung-kook đảo ngược khái
niệm của Peter Evan về “sự tự trị cố hữu” khi mô tả nhà nước phát
triển của Hàn Quốc ở Chương 7. Nhà nước sở hữu đặc tính hợp đoàn