nước ngoài khổng lồ để được tái cấp vốn, tình trạng bất ổn gia tăng ở
các thị trường tài chính tạo nên một mối đe dọa chết chóc đối với tính
bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
Dưới áp lực của hoạt động thoái vốn, tỷ giá hối đoái tăng cao khiến
các ngân hàng phải gây áp lực lên các khách hàng công nghiệp để tăng
tốc các khoản thanh toán cả gốc lẫn lãi của các khoản nợ nước ngoài
niêm yết bằng đồng đô-la. Sự khiên cưỡng trong việc gia hạn nợ của
các ngân hàng sau đó đẩy rất nhiều nhà sản xuất được tài trợ vốn bằng
nợ nước ngoài đi đến bờ vực sụp đổ.
Đến năm 1969, 86 công ty
lớn gặp khó khăn khi trả lãi cho các khoản vay nước ngoài được nhà
nước bảo lãnh, điều này ngay lập tức biến tình trạng kiệt quệ của các
doanh nghiệp thành cuộc khủng hoảng ngân hàng và biến tình hình bất
ổn tài chính trong nước thành cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài. Với
sự gia tăng nhanh chóng tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán vãng
lai, việc Hàn Quốc có thể xoay vòng được các khoản vay hay không
trở thành vấn đề nóng hổi trong giai đoạn đó.
không thể chi trả được các khoản vay nước ngoài, Hoa Kỳ hối thúc
Park chấp nhận chương trình giải cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
IMF cùng với Ngân hàng Thế giới và các cơ quan quốc tế khác cung
cấp các khoản vay cứu trợ với điều kiện Hàn Quốc phải phá giá tiền
tệ, kìm hãm chính sách tiền tệ mở rộng và phấn đấu cho một cán cân
tài khóa tốt hơn. Hàn Quốc đã ký một thỏa thuận nợ dự phòng
giá 25 triệu đô-la Mỹ với IMF vào năm 1968 và ký mới một lần nữa
vào năm 1969.
Bề ngoài, hầu hết các chỉ số kinh tế vĩ mô, từ các tỷ lệ tăng trưởng
đến chỉ số giá tiêu dùng, đầu tư và tiêu dùng, đều thoát khỏi vùng
nguy hiểm; một số thậm chí còn phát ra các tín hiệu điều chỉnh thông
thường sau một giai đoạn tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nắm được các
thông tin tài chính vĩ mô ở cấp độ doanh nghiệp, Park biết rằng nền
kinh tế Hàn Quốc đang ở bên bờ vực sụp đổ dưới áp lực của các khoản
vay mất khả năng thanh toán khổng lồ (NPL). Đằng sau tốc độ tăng