rằng ông ít bị hạn chế hơn bởi những lợi ích quân sự khi gây áp lực
khiến Park phải dân chủ hóa.
Càng làm câu chuyện phức tạp hơn nữa, chiến lược quân sự của
Hoa Kỳ thỉnh thoảng cũng mang tính quyết định, nếu không nói là
quan trọng hơn cả, so với những nỗ lực có ý thức về dân chủ hóa khi
định hình lựa chọn các thể chế chính trị của Hàn Quốc. Ở một mức độ,
ổn định chính trị là cơ sở cho sự hiện diện của Mỹ với vai trò bình ổn
khu vực Đông Á và vai trò phòng vệ trước những mối đe dọa quân sự
từ Triều Tiên. Bất cứ nghi vấn nào về vai trò này sẽ kích phát tình
trạng bất ổn trầm trọng ở Hàn Quốc mà đôi khi còn tác động lên chế
độ chính trị Hàn Quốc. Càng khiến chính trị Hàn Quốc biến động và
bất ổn hơn, hấu hết những thay đổi trong vai trò an ninh của Mỹ đã
được dẫn dắt bởi những lực lượng chính trị nội bộ Hoa Kỳ ngoài tầm
với của Hàn Quốc, gồm cả Học thuyết Guam của Nixon được đơn
phương tuyên bố năm 1969, tái thiết lập mối bang giao chính trị với
Trung Quốc năm 1972 và chính sách rút bộ binh Mỹ ra khỏi Hàn
Quốc của Carter năm 1977. Những cú sốc an ninh này khiến Park phải
tuyên bố chính quyền yushin năm 1972 và tăng cường hơn quyền kiểm
soát khẩn cấp của ông sau năm 1974. Carter đáp trả, ngăn cản những
hình thức xâm phạm nhân quyền nặng nề nhất và trong một số trường
hợp buộc phóng thích các tù nhân chính trị. Tuy nhiên, ở góc nhìn
tổng quát hơn trong trò chơi của sự thay đổi và tồn tại chính quyền,
chính sách hoạt động nhân quyền của Carter đã thất bại trong việc mở
cửa chính trị (Chương 15). Thay vì vậy, nó đã khởi phát một cuộc
khủng hoảng chế độ vào năm 1979 khi cổ vũ cả hai bên lực lượng thân
Park và chống Park lựa chọn những lập trường không khoan nhượng
chống đối lẫn nhau về vấn đề chế độ chính trị (Chương 5, 6 và 13).
Hình tượng nước Mỹ được vẽ nên trong cuốn sách này hoàn toàn
trái ngược với một nước bá chủ. Từ thời chính quyền quân sự cho đến
chế độ yushin, và trong nhiều lĩnh vực có vấn đề như chế độ chính trị,
sự hiện đại hóa quân sự, nhân quyến và sự rút quân của Mỹ, Hoa Kỳ