đa phần là một đối tượng chịu thao túng với vai trò dẫn dắt chính trị
trong nước của Hàn Quốc, nó đã tạo cho Park những lý do cho sự cai
trị suốt đời ở giai đoạn yushin. Hơn nữa, trong nhiều ví dụ cho sự can
thiệp vào chính quyền chuyên chế, nước Mỹ nhận thấy các kết quả
khác biệt đáng kể so với những ý định của nó. Tương tự, Hoa Kỳ gây
ảnh hưởng được lên nội bộ chính trị của đất nước nhược tiểu này trực
tiếp hơn và bền bỉ hơn thông qua thay đổi về chính sách an ninh khu
vực hơn là thông qua việc thực hiện chính sách hoạt động nhân quyền.
Vai trò người thúc đẩy dân chủ của Hoa Kỳ bị hạn chế bởi sự lấn át
của an ninh quân sự trong các lợi ích quốc gia, điều này đã cho phép
Park thông báo về cuộc đảo chính như một sự việc đã rồi vào năm
1961, hạn chế những chỉ trích của Mỹ về chủ nghĩa chuyên chế mềm
của ông thông qua việc gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam
trong giai đoạn 1965-1972, và kháng cự trước chính sách nhân quyền
của Carter trong đa phần những năm yushin. Thật ra Hoa Kỳ chưa bao
giờ là một thế lực thống nhất với một tiếng nói chung. Các lãnh đạo
quân đội Hoa Kỳ đặt việc phòng thủ lên trên dân chủ, điều này cho
phép Park tối thiểu hóa các tổn hại chính trị phát sinh từ sự chống đối
của ông trước những áp lực của Mỹ (Chương 1, 8, 14 và 16). Trường
hợp duy nhất của “chiến thắng rõ ràng cho Hoa Kỳ” xảy ra vào năm
1971, khi Hàn Quốc bắt đầu phát triển vũ khí hạt nhân để bù đắp lại sự
cắt giảm lực lượng quân sự của Mỹ ở nước này. Như Sung Gul Hong
viết ở Chương 16, khi các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đe dọa
về một “sự đổi hướng sâu sắc trong toàn bộ mối quan hệ chính trị,
kinh tế và an ninh”, Park chấm dứt chương trình tái khởi động của ông
vào năm 1975.
Mặc cho những đóng góp quan trọng của Mỹ và Nhật vào tăng
trưởng kinh tế Hàn Quốc, mối quan hệ chính trị Mỹ - Hàn không phải
luôn ổn định, thân thiết và tôn trọng lợi ích lẫn nhau ở hầu hết giai
đoạn Park cầm quyền. Hầu hết các lý thuyết về nhà nước phát triển và
các nhà phân tích mạng lưới đều bỏ sót những xung đột này trong các