liên minh với Hyundai bằng cách bán ra Excel của Hyundai dưới tên
Precis thông qua mạng lưới marketing của công ty này trên thị trường
Mỹ. Do mối hợp tác chặt chẽ của Hyundai với Mitsubishi là quan
trọng đối với thành công về xuất khẩu ở ngành xe khách cỡ nhỏ, liên
minh này tạo cho Mitsubishi Motors cơ hội bắt kịp với Toyota và
Honda ở thị trường Mỹ.
Thứ hai, chính sách thương mại của Mỹ đối với xuất khẩu ô tô Nhật
Bản giúp Hyundai thâm nhập vào thị trường Bắc Mỹ. Hoa Kỳ bắt đầu
gây áp lực cho Nhật Bản nhằm áp dụng hạn chế xuất khẩu tự nguyện
năm 1982. Đối mặt với các thách thức bảo hộ đang gia tăng, tuy nhiên
cũng phải chịu áp lực chuyển dịch lợi thế tương đối từ ô tô thấp cấp
lên cao cấp, các hãng xe Nhật Bản bắt đầu chuyển trọng tâm sản xuất
từ dòng xe cỡ nhỏ sang cỡ vừa và thậm chí là dòng xe sang trọng. Bối
cảnh này giúp Hyundai tham gia vào thị trường xe cỡ nhỏ ở Mỹ giữa
những năm 1980.
Thứ ba, khi các thị trường xe cỡ nhỏ nước ngoài mở cửa, chính các
hãng xe Hàn Quốc, chứ không phải các nhà sản xuất ở các nước đang
phát triển khác, nhanh chóng lấp đầy lỗ hổng, vì họ sở hữu lực lượng
lao động tương đối rẻ nhưng hiệu suất cao. Hơn nữa, cho đến khi
“Cuộc biểu tình vĩ đại của công nhân” nổ ra sau thành công dân chủ
tháng 6 năm 1978, công nhân trong ngành ô tô, cũng như ở các ngành
công nghiệp nặng và hóa chất khác, bị pháp luật cấm tổ chức liên đoàn
lao động. Khu vực lao động không có phong trào, bị phi chính trị hóa
thông qua các kỷ luật lao động giống như quân đội, là một yếu tố đóng
góp cho tính cạnh tranh của ngành ô tô Hàn Quốc. Năng suất lao động
ở Hàn Quốc cao hơn nhiều so với ở Mexico và Brazil, mặc dù lương ở
các nước này cao hơn.
Thứ tư, thành công về xuất khẩu của ngành ô tô phụ thuộc rất nhiều
vào quyết định phát triển doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước trong
cấu trúc của các tập đoàn chaebol. Bằng cách khuyến khích quyền sở
hữu trong nước, Park hy vọng tạo ra một doanh nghiệp sản xuất ô tô