Quốc vẫn thất bại khi được trình lên Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa
Kỳ (USAID) hay Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ. Họ đưa ra lý
do bác bỏ là nguy cơ gửi đi các tín hiệu sai về chính sách của Mỹ
trong các vấn đề của chính quyền quân sự và bình ổn tài khóa. Chính
quyền Kennedy lúc bấy giờ đang buộc Park và phái chính thống của
ông xác định ngày lập lại chính quyền dân sự cũng như kiểm soát lạm
phát thông qua cắt giảm ngân sách và gia tăng thuế. Chấp thuận đề
xuất vay vốn của nhà máy Thép Tổ hợp Hàn Quốc khi Park đang kịch
liệt chống đối các nỗ lực dân chủ hóa và ổn định hóa của Mỹ bị cho là
gây nguy hại đến các lợi ích của Hoa Kỳ. Ngoài ra, USAID lập luận
rằng ưu tiên hàng đầu của chính quyền quân sự không nên là ngành
thép mà là lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, cơ khí và truyền
thông. Lời từ chối của Mỹ khiến Ủy ban Van Fleet ngay lập tức đánh
giá dự án nhà máy thép tổ hợp là không khả thi, vì chỉ khi có vốn vay
lãi suất thấp và viện trợ chính phủ từ Mỹ thì cộng đồng tài chính quốc
tế mới tham gia ủng hộ dự án này. Ủy ban này cũng nhanh chóng tự
giải thể.
Vào tháng 7 năm 1962, nỗ lực thứ ba được thực hiện vì dự án nhà
máy thép, lần này là từ Ban Kế hoạch Kinh tế (EPB). Với mục tiêu tạo
được niềm tin của Park, siêu bộ này đề xuất thành lập một liên minh
tài chính quốc tế xung quanh Ngân hàng Thế giới, và Phái đoàn Viện
trợ Mỹ (USOM) chịu trách nhiệm quản lý viện trợ ở Hàn Quốc.
Không may cho EPB, USOM lúc bấy giờ đang sử dụng viện trợ là
công cụ để cải thiện kế hoạch FYEDP lần thứ nhất đầy tham vọng của
Park bằng cách điều chỉnh các ưu tiên, chiến lược đầu tư và buộc Park
thực hiện lời hứa dân chủ hóa của ông. Áp lực từ USOM lên Park
nhằm thay đổi các chỉ tiêu mục tiêu về nguồn cung tiền, ngân sách, dự
trữ ngoại hối và ổn định giá cả ở các mức thực tế hơn đã gia tăng trong
suốt năm 1963, lên đến đỉnh điểm bằng việc Park bãi bỏ chiến lược
tăng trưởng thiếu cân bằng hướng nội dựa trên công nghiệp hóa ngành
công nghiệp nặng và hóa chất. Park không thể theo đuổi HCI mà