lồ từ Nhật Bản đã sẵn sàng chảy vào Hàn Quốc nhờ quá trình bình
thường hóa quan hệ với Nhật Bản của Park vào năm 1965, nhưng ông
vẫn hy vọng xây dựng một nhà máy thép tổ hợp dựa trên các khoản
vay thương mại được Mỹ môi giới và/hoặc tiền viện trợ quốc tế. Tuy
nhiên Hoa Kỳ vẫn không thể hoặc không chấp nhận vai trò đối tác hay
người bảo hộ. Tư duy của các nhà hoạch định chính sách Mỹ thấm
đẫm quan niệm tân cổ điển về tính duy lý kinh tế và quan điểm cứng
nhắc về lợi thế tương đối, dự án nhà máy thép của Park dựa trên
những suy nghĩ viển vông hoặc, tồi tệ hơn nữa, sự thiếu suy xét.
Bên cạnh đó, USOM hối thúc Hàn Quốc ít lệ thuộc hơn vào viện trợ
Mỹ bằng cách đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư từ Nhật Bản. Sự cổ vũ
này không chỉ nhất quán với chính sách hạn chế viện trợ chính phủ có
từ lâu của Mỹ, vì nước này đã bắt đầu bị thâm hụt thương mại năm
1958, mà còn cả với chiến lược an ninh quân sự vốn có của nước này
kết hợp “các nước tự do” của Đông Á vào một hệ thống liên minh khu
vực lỏng, với việc Nhật Bản ngày càng chia sẻ gánh nặng an ninh khu
vực và bán đảo như một đối tác nhỏ của Hoa Kỳ. Về việc này, Hoa Kỳ
đã gây áp lực lên Nhật Bản nhằm cung cấp thêm các nguồn vốn phát
triển cho khu vực Đông Á, cũng như nhằm bình thường hóa quan hệ
ngoại giao với Hàn Quốc. USAID và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa
Kỳ càng thêm do dự về việc tài trợ cho chương trình phát triển công
nghiệp thép của Hàn Quốc khi các nhà sản xuất thép Mỹ lo sợ mất đi
thị trường Hàn Quốc vào tay các nhà sản xuất địa phương mới thành
lập khi nhà sản xuất thép Nhật Bản và châu Âu đe dọa đến thị trường
trong nước của Mỹ và làm bão hòa thị trường thế giới.
Tuy nhiên,
Park vẫn mong đợi sự lãnh đạo từ Mỹ khi ông công bố dự án nhà máy
thép tổ hợp cùng với việc ban hành FYEDP thứ hai vào năm 1967
trong cuộc tranh cử. Dựa trên những đánh giá chính sách của MCI-
EPB từ năm 1964, FYEDP thứ hai đặt ngành công nghiệp thép, cùng
với các ngành công nghiệp hóa dầu và cơ khí, làm lĩnh vực “hạt nhân”
của Hàn Quốc. Lộ trình xây dựng nhà máy thép tổ hợp đạt đến tầm