vào ngành là rất thấp ở thời điểm đó vì các rào cản tham gia quá cao.
Tuy nhiên, khả năng đó được để mở, và EPB hy vọng qua đây sẽ buộc
POSCO hoạt động có năng suất. Hơn nữa, nguyên tắc tham gia này
cũng sẽ khiến các tập đoàn tư nhân bị loại ra đỡ thất vọng hơn. Các
nhà sản xuất thép tư nhân dùng lò nung điện lúc đó có thể chịu đựng
việc này với hy vọng rằng họ cũng sẽ có thể thỏa mãn được yêu cầu về
quy mô và hưởng hỗ trợ chính phủ khi tăng trưởng.
Park Tae-jun của POSCO phản đối việc thực thi đạo luật đặc biệt
dành cho công ty thậm chí còn quyết liệt hơn so với EPB. Park lập
luận rằng nhà nước có thể can thiệp để hỗ trợ POSCO theo luật chung
cho ngành cũng mạnh như theo luật đặc biệt cho công ty, và rằng sẽ có
rủi ro POSCO trở thành cái mỏ để những kẻ trục lợi đào cao hơn nhiều
trong trường hợp dùng luật đặc biệt. Để tối thiểu hóa tình trạng kém
hiệu quả, Park cũng lập luận rằng luật chung cho ngành cần phải có
giới hạn về thời gian và sẽ hết hiệu lực sau khi POSCO hoàn thành
giai đoạn mở rộng. Có lẽ, viễn cảnh về lợi ích có được nhờ việc chấm
dứt đạo luật sẽ khiến POSCO có động lực xây dựng lợi thế cạnh tranh
hơn nữa thông qua cải tiến trong ngắn hạn. Trong dài hạn, quy định
này sẽ giảm sức hấp dẫn của việc tham gia vào ngành thép của các tập
đoàn chaebol. Các nhà sản xuất thép chaebol tiềm năng sẽ không được
hưởng hỗ trợ nhà nước giống như POSCO vì, đến lúc đó, đạo luật
ngành có giới hạn thời gian đã chấm dứt hiệu lực. Hơn nữa, bằng cách
cho phép Park lập luận rằng ông có một hạn cuối cụ thể để biến
POSCO thành một doanh nghiệp mới có khả năng sinh lợi tự duy trì,
quy định này cung cấp cho ông và POSCO mức độ tự do chưa từng có
trước bộ máy quan liêu nhà nước. Tuy nhiên, Park Tae-jun đã bị các
quan chức EPB làm cho thất vọng, họ chuẩn bị đưa ra Luật Phát triển
Công nghiệp Thép như là luật chung cho ngành mà không có giới hạn
về thời gian. Dự luật này được Nghị viện Quốc gia thông qua vào
tháng 1 năm 1970.